Bác sĩ tử thần và những nạn nhân đáng thương

GD&TĐ - Bác sĩ là người mang đến cho bệnh nhân niềm tin, giúp họ vượt qua những đau khổ về thể chất cũng như tinh thần.

Phòng khám, nơi hàng trăm bệnh nhân chết dưới tay “bác sĩ tử thần”.
Phòng khám, nơi hàng trăm bệnh nhân chết dưới tay “bác sĩ tử thần”.

Thế nhưng, có một bác sĩ đã biến bệnh nhân thành nạn nhân trong những vụ giết người ghê gớm. Ông ta đã trở thành một trong những kẻ sát nhân đáng sợ nhất trong lịch sử nước Anh.

Tiền sử nghiện ngập

Harold Shipman sinh ra ở Nottingham, Anh vào năm 1946. Ông là một học sinh đầy triển vọng ở trường và rất xuất sắc trong các môn thể thao, đặc biệt là bóng bầu dục.

Cuộc đời Shipman thay đổi khi ông lên 17 tuổi. Năm đó, người mẹ mà ông rất mực thương yêu bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi. Trong khi bà hấp hối trong bệnh viện, Shipman đã quan sát kỹ cách các bác sĩ làm dịu cơn đau đớn của bà bằng những liều morphine. Các chuyên gia sau đó suy đoán rằng, đây là khoảnh khắc “truyền cảm hứng” cho thú vui tàn bạo và cách thức giết người của ông ta sau này.

Sau cái chết của mẹ, Shipman kết hôn với Primrose May Oxtoby khi còn đang học tại Trường Y, Đại học Leeds. Họ có với nhau bốn người con và nhìn bề ngoài, gia đình Shipman có một cuộc sống bình thường, êm ấm.

Ông ta tốt nghiệp năm 1970, vào nghề với tư cách là một bác sĩ cơ sở, nhưng sau đó thăng tiến nhanh chóng, trở thành bác sĩ đa khoa tại một trung tâm y tế ở West Yorkshire.

Chính tại đây, vào năm 1976, Shipman bị bắt quả tang đang làm giả đơn thuốc để mua Demerol cho chính mình. Đây là một loại thuốc phiện dùng để điều trị những cơn đau dữ dội. Do nghiện thuốc, Shipman bị phạt tiền, bị đuổi việc và buộc phải đến một bệnh viện phục hồi chức năng ở York để cai.

Thầm lặng giết người

Bác sĩ “tử thần” Harold Shipman.
Bác sĩ “tử thần” Harold Shipman. 

Năm 1977, sau khi vượt qua được những cơn nghiện, ông trở lại làm việc tại Trung tâm Y tế Donneybrook ở Hyde. Shipman dành 15 năm tiếp theo trong sự nghiệp của mình ở đây, trước khi thành lập một phòng khám bệnh riêng vào năm 1993.

Trong cộng đồng, cũng như ở các bệnh nhân của ông tại địa phương, Shipman được đánh giá là một công dân tốt, một bác sĩ thân thiện, ân cần. Không ai ngờ, trong thời gian hành nghề, vị “bác sĩ giỏi” đã bí mật giết chết bệnh nhân của mình.

Theo các nhà điều tra, từ năm 1975 - 1998, Shipman đã sát hại khoảng 250 người. Ông ta thực hiện hành vi phạm tội với phương thức không thay đổi: Sử dụng một liều diamorphine gây chết người, rồi nhìn họ chết ngay tại chỗ. Tại phòng khám ở Donneybrook, số người chết dưới tay ông ta là 71, còn lại là những nạn nhân đến phòng khám riêng.

Vào năm 1998, những người làm nghề mai táng ở Hyde nghi ngờ về số bệnh nhân của Shipman bị chết. Các bác sĩ ở vùng lân cận còn phát hiện tỷ lệ bệnh nhân tử vong của Shipman cao hơn gần 10 lần so với bệnh nhân của họ. Họ báo cáo sự quan ngại của mình với nhà chức trách địa phương và cảnh sát lập tức vào cuộc.

Tuy nhiên, cảnh sát đã không thực hiện những bước điều tra cơ bản nhất, bao gồm cả việc xem Shipman có tiền án hay không. Nếu kiểm tra hồ sơ của ông ta tại hội đồng y tế, họ sẽ phát hiện vụ làm giả đơn thuốc trong quá khứ.

Ngoài ra, Shipman đã khôn ngoan che đậy dấu vết của mình bằng cách ghi thêm những chứng bệnh nan y giả vào hồ sơ của nạn nhân. Do đó, cuộc điều tra không tìm thấy điều gì khác thường trong cái chết của những bệnh nhân. 

Sa lưới pháp luật

Tội ác của Shipman cuối cùng cũng bị phơi bày sau khi ông ta mắc sai lầm: Giả mạo di chúc của một trong những nạn nhân, bà Kathleen Grundy, 81 tuổi, cựu Thị trưởng thị trấn Hyde nơi ông ta sinh sống.

Sau khi tiêm cho Grundy một liều diamorphine gây tử vong, Shipman đã làm giả di chúc với nội dung người đã khuất giao hết mọi thứ cho ông ta và yêu cầu được hỏa táng. Tuy nhiên, gia đình Grundy không thiêu xác mà chôn cất bà trong nghĩa trang.

Sau đó, con gái của bà, Angela Woodruff, được các luật sư địa phương thông báo về di chúc của mẹ. Ngay lập tức, cô nghi ngờ có sự gian dối và đi báo cảnh sát.

Thi thể của bà Grundy được khai quật vào tháng 8/1998 và diamorphine được tìm thấy trong các mô cơ của bà. Shipman bị bắt vào ngày 7 tháng 9 năm đó.

Tại cơ quan điều tra, Shipman khẳng định Grundy nghiện một loại ma túy như morphine hoặc heroin và trưng ra những ghi chú làm bằng chứng. Tuy nhiên, cảnh sát phát hiện Shipman đã viết các ghi chú này trên máy tính sau khi bệnh nhân qua đời.

Trong hai tháng tiếp theo, thi thể của 11 nạn nhân khác cũng được khai quật. Một chuyên gia cảnh sát cũng đã kiểm tra máy tính của Shipman và phát hiện ra ông ta đã nhập sai bệnh tình của nhiều bệnh nhân cho phù hợp với nguyên nhân tử vong ghi trên giấy chứng tử.

Sau đó, cảnh sát đã xác định 14 trường hợp khác mà Shipman đã sử dụng liều diamorphine gây chết người, giả mạo bệnh sử của họ để chứng minh họ chết vì căn bệnh mà ông ta bịa ra.

Harold Shipman luôn phủ nhận các vụ giết người và từ chối hợp tác với cảnh sát hoặc bác sĩ tâm thần tội phạm. Cảnh sát chỉ có thể buộc tội Shipman với 15 vụ giết người, nhưng người ta ước tính số nạn nhân của ông ta khoảng từ 250 - 450 người.

Năm 2000, Shipman bị kết án tù chung thân với khuyến cáo không được giảm án. Đầu tiên, ông ta bị giam trong một nhà tù ở Manchester, nhưng sau được đưa đến trại giam Wakefield ở Tây Yorkshire. Một ngày trước sinh nhật lần thứ 58 của mình, 13/1/2004, Shipman được tìm thấy chết trong tư thế treo cổ trong phòng giam.

Cái chết của Shipman làm dấy lên câu hỏi tại sao ông ta lại giết nhiều người như vậy. Một giả thuyết cho rằng, ông ta làm như vậy để trả hận cho cái chết của mẹ mình, còn một số người thì có ý nghĩ nhân đạo hơn, khi nói ông ta tiêm diamorphine cho người già bệnh hoạn như một cách bày tỏ lòng trắc ẩn, không muốn họ chết trong đau đớn.

Theo Allthatsinteresting

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Ảnh minh họa.

Quy về thang điểm chung

GD&TĐ - Việc quy về một thang điểm chung là hoàn toàn khả thi; nếu khó cũng nên làm vì lợi ích chung của cả hệ thống...

Những ký ức trong tim

Những ký ức trong tim

GD&TĐ - Những năm tháng học trò là quãng thời gian đáng nhớ nhất, là lúc ta được trải nghiệm những giây phút vui buồn, với bao nhiêu khoảnh khắc không thể phai nhạt.