Thám hoa tài danh bậc nhất nước Nam

GD&TĐ - Không ai phủ nhận được tài năng của các bậc Thám hoa xưa. Thế nhưng để xếp bậc danh tài, thì có lẽ Nguyễn Huy Oánh xứng đáng để muôn đời ngợi ca.

Nhà thờ dòng họ Nguyễn Huy ở xã Trường Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh).
Nhà thờ dòng họ Nguyễn Huy ở xã Trường Lộc (Can Lộc - Hà Tĩnh).

Tài năng của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh trải dài trên các lĩnh vực như: Thiên văn, địa lý, lịch sử, triết học, hội họa. Ông để lại sự nghiệp trước tác đồ sộ, với gần 40 tập sách khác nhau. Trong đó, công trình “Hoàng hoa sứ trình đồ” đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới.

Cái chí của người làm quan

Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789) tự là Kính Hoa, hiệu Lựu Trai, Thiên Nam cư sĩ. Ông là người làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), một làng quê nổi tiếng bởi Văn phái Hồng Sơn.

Sinh trưởng trong một gia đình Nho học với nhiều người đỗ đạt cao. Từ nhỏ, Nguyễn Huy Oánh đã thể hiện tinh thần ham học cùng sự thấu đáo của sự học. Đối diện với vấn đề gì, ông thường đào sâu tới tận cùng để hiểu mạch nguồn của sự việc.

Năm 1732, ông đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương tại trường thi Nghệ An lúc 20 tuổi, được bổ quan rồi thăng dần đến chúc Tri phủ Trường Khánh. Năm 1733, ông tham dự kỳ thi Hội nhưng không đậu.

Năm Mậu Thìn (1748) ông đỗ thi Hội và khi vào thi Đình, ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ (Thám hoa) ở tuổi 36. Sau khi thi đỗ, ông được bổ làm Thị giảng trong phủ chúa Trịnh Doanh kiêm chức Hàn lâm viện đãi chế. Ông cũng từng là thầy dạy của chúa Trịnh Sâm thuở thiếu thời.

Năm 1750, Nguyễn Huy Oánh làm Hiệp đồng đạo Nghệ An cùng với Phạm Đình Trọng vây phá Bào Giang - căn cứ của Nguyễn Hữu Cầu. Sau này, ông còn trải qua các chức: Đông Các hiệu thư, Thượng bảo tự khanh, Đông Các đại học sĩ, Tri binh phiên, Nội giảng rồi Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1761, ông được ban tam phẩm để tiếp sứ nhà Thanh, đến năm 1765 làm Chánh sứ đi sứ Trung Quốc. Năm 1768, ông được thăng làm Hữu thị lang bộ Công rồi sau đó là Thượng thư bộ Công.

Mặc dù ở đỉnh cao danh vọng, nhưng năm 1783 Nguyễn Huy Oánh đã viết bài “Từ Tham tụng khải” xin được từ quyền Tham tụng (là quyền điều hành chính sự), vì xét thấy triều chính suy vi, bản thân không thể mù quáng mà theo mãi.

Nguyễn Huy Oánh nổi tiếng là người làm được nhiều việc, và việc nào cũng đạt hiệu quả cao. Ông từng tổng kết cái chí của mình khi làm quan: “Việc văn mài giũa, cùng việc võ luyện đủ; chẳng phải để mà chú tâm mưu đồ phú quý... Chỉ đeo đuổi một niềm ái quốc trung quân; đâu dám mưu cầu điền địa cửa nhà”.

Hoàng hoa sứ trình đồ, công trình quan trọng có ý nghĩa lớn về lịch sử - địa lý và ngoại giao.

Hoàng hoa sứ trình đồ, công trình quan trọng có ý nghĩa lớn về lịch sử - địa lý và ngoại giao.

Trồng người để mở kế trăm năm

Nguyễn Huy là dòng họ có nhiều đóng góp cho sự nghiệp giáo dục Việt Nam từ xa xưa. Từ vị tổ đầu tiên Nguyễn Uyên Hậu là một nhà giáo tại kinh thành Thăng Long, con cháu của dòng họ có nhiều người theo nghiệp dạy học. Đồng thời, dòng họ cũng có những triết lý riêng về giáo dục.

Trước khi làm Tư nghiệp (hiệu phó) Quốc Tử Giám cũng như sau này, Nguyễn Huy Oánh đề cao chất lượng của việc giáo dục. Ông coi trọng chất lượng quan lại vì chính họ sẽ làm nên chất lượng công việc.

Học trò theo học Nguyễn Huy Oánh trải dài từ Bắc vào Nam. Có hàng trăm người đỗ tiến sĩ, cử nhân hoặc tú tài. Trong số đó, nổi bật là danh sĩ Phạm Quý Thích (1760 - 1825), người Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1779, làm quan đến chức Thiêm sai tri công phiên.

Hay như Phạm Nguyễn Du (1739 - 1786), người Nghệ An, đỗ Hoàng giáp năm 1779, làm quan đến chức Giám sát ngự sử, Đốc đồng. Ông còn là nhà thơ, nhà văn, nhà sưu tập nổi tiếng đương thời.

Ghi nhận tài năng, tâm huyết của Nguyễn Huy Oánh với sự nghiệp giáo dục, triều đình đã phong cho ông là Uyên phổ hoằng dụ đại vương và sắc phong có ghi trang trọng: “Nối nguồn thơm từ Khổng Tử; rạng dòng tốt bởi núi Ni; lấy văn trồng người mở kế trăm năm”.

Nguyễn Huy Oánh trước tác nhiều thể loại. Ông để lại 40 tập sách về văn học, lịch sử, địa lý, y học... nổi bật là các tập: Phụng sứ yên kinh tổng ca, nhật ký thơ trên đường đi sứ, Tiêu tương bát vịnh, Thạc Đình di cảo... gồm các bài ngâm vịnh và tự thuật, một tập ghi chép kèm bản vẽ “Hoàng hoa sứ trình đồ bản” rất có giá trị về địa lý và lịch sử.

Ông còn dành nhiều thời gian nghiên cứu và viết được nhiều bộ sách là: Quốc sử toản yếu – tóm lược quốc sử, san bổ từ khởi thuỷ đến hết thời nhà Trần, Bắc dư tập lãm - ghi chép về danh thắng Trung Quốc, Sơ học chỉ nam - hướng dẫn nhập môn cho học trò, Tính lý toản yếu và Dược tính ca quát - viết về y học, Huấn nữ tử ca -  dạy con gái về công, dung, ngôn, hạnh... Đó đều là các tác phẩm có giá trị truyền đời.

Trong gia đình, Nguyễn Huy Oánh chú trọng dạy em và các con giữ đạo nhà, chuyên tâm học tập. Em trai ông là Nguyễn Huy Quýnh (1734 - 1785) đỗ tiến sĩ năm Nhâm Thìn (1772), làm quan đến Hàn lâm viện thị giảng.

Con trai ông là Nguyễn Huy Tự (1743 - 1790), đỗ Giải nguyên kỳ thi Hương năm 1759. Đến năm 1779 được công nhận học vị tương đương với tiến sĩ, chuyển sang ban võ nhưng vẫn sáng tác văn thơ. Nguyễn Huy Tự là tác giả truyện thơ Nôm “Hoa tiên”.

Các con của Nguyễn Huy Tự là Nguyễn Huy Phó, Nguyễn Huy Vinh và Nguyễn Huy Hổ đều tiếp nối truyền thống tốt đẹp của gia đình và đều là những văn nhân có tiếng. Trong đó, nổi bật hơn cả về văn chương và học thuật là người Nguyễn Huy Hổ (1783 - 1841), tác giả tập thơ Nôm “Mai Đình mộng ký” viết năm 1809.

Mộc bản Trường Lưu do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh tổ chức in ấn.

Mộc bản Trường Lưu do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh tổ chức in ấn.

Một dòng họ, hai di sản thế giới

Văn bia “Hậu thần bi ký” tại Nghệ An - Di văn của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.

Văn bia “Hậu thần bi ký” tại Nghệ An - Di văn của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.

TS Nguyễn Thanh Tùng (Khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội), nhận định: Trong số những công trình “trứ thuật” của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, thì “Hoàng hoa sứ trình đồ” là công trình quan trọng nhất. Đồng thời, cũng là một sứ trình đồ sớm nhất hiện còn, mở đầu cho hàng loạt sứ trình đồ sau này như: Hoàng hoa đồ phả (Ngô Thì Nhậm, đời Tây Sơn), Sứ trình quát yếu biên (Lý Văn Phức, năm 1841), Như Thanh đồ (Phạm Văn Trữ, năm 1882), Yên sứ trình đồ (Nguyễn Khắc Hoạt, năm 1876).

Năm 1783 giữa lúc ở đỉnh cao quyền lực, Nguyễn Huy Oánh từ quan. Về quê, ông lập ra thư viện Phúc Giang và mở trường dạy học gọi là Trường Lưu học hiệu. Tại đây, ông còn cho khắc in gỗ các loại sách.

Trường học này về sau được đánh giá là một trường có thư viện đầy đủ không thua kém những trường học tầm cỡ tại Thăng Long. Chỉ riêng một Trường Lưu học hiệu và Phúc Giang thư viện đã khiến Trường Lưu nổi lên như một làng văn hiến hiếm có thời xưa.

Trên 200 bản khắc gỗ, tất cả sách vở do Nguyễn Huy Oánh tổ chức in ấn đều phục vụ cho việc học tập. Ngoài ra còn hàng vạn trang chữ Hán Nôm làm tài liệu tham khảo cho học trò và các văn nhân đương thời. Thư viện của ông được triều đình cấp sắc công nhận cùng với một số thư viện tư nhân khác đương thời.

Năm 1824, triều Nguyễn (1802 - 1945) đã truy phong cho ông, ghi nhận “Phúc Giang thư viện uyên bác chi thần”. Như vậy, thư viện Phúc Giang là thư viện duy nhất trong cả nước có thờ thần (vị thần chủ về học vấn, cụ thể là Nguyễn Huy Oánh). Đó là sự ghi nhận và đánh giá rất cao, hiếm có.

Các bản khắc gỗ là khối mộc bản duy nhất, cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ ở Việt Nam. Di sản bao gồm 383 bản, được khắc chữ Hán ngược để in 3 tập sách giáo khoa kinh điển (gồm 11 quyển) của Nho giáo và 1 quyển sách quy chế trường học: Tính lý toản yếu đại toàn, Ngũ kinh toản yếu đại toàn và Thư viện quy lệ.

Tháng 5/2016, Mộc bản Trường Lưu được Ủy ban Chương trình ký ức Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương công nhận là Di sản tư liệu ký ức thế giới. Tròn 2 năm sau (5/2018), một di sản khác của dòng họ Nguyễn Huy là “Hoàng hoa sứ trình đồ” tiếp tục được UNESCO công nhận.

Công trình được vẽ bằng 3 loại màu với nội dung chính: Bản đồ về hành trình đi sứ từ biên giới Việt - Trung qua các châu, phủ, dịch trạm. Ghi chú về quá trình đi sứ: Thời gian và địa điểm qua các nơi dừng nghỉ theo lộ trình thủy bộ chiều đi và chiều về, ngày lưu trú và các hoạt động của đoàn sứ bộ.

Cấu trúc, thời gian xây các cửa cung của Yên Kinh cùng các ghi chép tỉ mỉ về địa hình sông núi, phong cảnh, con người và nghi lễ ngoại giao.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ