Dự báo dư thừa từ 2,3 - 4,3 triệu nam giới
Theo Đại biểu Lê Thị Yến, những năm 60 của thế kỷ trước trung bình mỗi cặp vợ chồng có khoảng 6 hoặc 7 con, đến năm 2006 trung bình mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã đạt được mức sinh thay thế và duy trì mức sinh thay thế này trong 10 năm liên tục.
Tuy nhiên, nước ta hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh, tình trạng này đang gia tăng và không đồng đều giữa các vùng miền.
Năm 2006 tỷ số này là 109/100 và tăng lên rất nhanh. Năm 2013 là 113,8/100 và ước thực hiện năm 2017 là 113/100. Số tỉnh, thành phố có tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh cũng tăng nhanh. Năm 2009 là 45/63 thì đến năm 2015 là 55/63 tỉnh.
Đại biểu Lê Thị Yến – Đoàn Phú Thọ - cho rằng, nguyên nhân của tình trạng này là do ảnh hưởng của văn hóa nho giáo khi muốn có con trai để nối dõi tông đường, trọng nam hơn nữ, nay lại có xu hướng gia đình ít con, trong khi hệ thống nuôi dưỡng người cao tuổi chưa phát triển, người cao tuổi vẫn mong muốn được ở cùng con trai.
Mong muốn sinh được con trai lại trở nên rất dễ thực hiện khi khoa học, công nghệ y tế phát triển có thể chuẩn đoán sớm giới tính thai nhi và can thiệp lựa chọn giới tính thai nhi một cách dễ dàng.
Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ ở độ tuổi trưởng thành. Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra và không có giải pháp hữu hiệu thì theo dự báo của Quỹ dân số Liên hợp quốc đến giữa thế kỷ này ở nước ta sẽ dư thừa từ 2,3 - 4,3 triệu nam giới trong độ tuổi trưởng thành.
Dự báo hàng triệu ông sẽ không lấy được vợ. Điều này gây hệ lụy cho sự phát triển bền vững của đất nước, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Đại biểu Quốc hội Lê Thị Yến: Dự báo của Quỹ dân số Liên hợp quốc đến giữa thế kỷ này ở nước ta sẽ dư thừa từ 2,3 - 4,3 triệu nam giới trong độ tuổi trưởng thành. |
Nam giới cần được chăm sóc sức khỏe sinh sản
Cũng theo Đại biểu Lê Thị Yến, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe sinh sản và đặc biệt là sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cũng cần được quan tâm.
Theo quy định, tại Điều 17 Luật Bình đẳng giới: nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục truyền thông về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.
Tuy nhiên, theo Đại biểu Lê Thị Yến – Đoàn Phú Thọ, Luật quy định như vậy và thực tiễn cũng cho thấy phụ nữ và nam giới đều cần được thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khỏe và sức khỏe sinh sản như nhau.
Nhưng trước đây và bây giờ cũng vậy nhiều đấng mày râu vẫn cho rằng việc chăm sóc sức khỏe sinh sản thường được xem là chuyện chỉ dành cho phụ nữ và gắn liền với phụ nữ, nam giới thường ít quan tâm về vấn đề này.
Mặt khác, hầu hết các chính sách về chăm sóc sức khỏe chủ yếu được nhắm tới giới nữ mà chưa hướng đến chăm sóc sức khỏe tình dục cho nam giới. Vì vậy, các loại dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản dành cho nam giới chưa được phát triển.
Sự xuất hiện của nam giới với góc độ là đối tượng thụ hưởng các chương trình chăm sóc sức khỏe còn hạn chế, trong khi cũng như nữ giới nam giới có rất nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản cần được quan tâm như: vấn đề hiếm muộn, vấn đề vô sinh, hay như nhu cầu về sinh lý thay đổi theo từng độ tuổi, các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục.
Nhiều nam giới có nhu cầu về chăm sóc sức khỏe sinh sản nhưng lại không có thói quen đến cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn và điều trị.
Mặt khác, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho nam cũng không sẵn có và không thuận lợi cho nam giới tiếp cận, do đó dẫn đến nhiều trường hợp bệnh nặng với những biến chứng nguy hiểm thì mới được phát hiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cũng như khả năng sinh sản của nam giới. Trong khi đó, sức khỏe sinh sản của nam giới đóng một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dân số.
Xử lý nghiêm các trường hợp lựa chọn giới tính thai nhi
Từ những phân tích trên, Đại biểu Lê Thị Yến đề xuất: Cần đổi mới nội dung và tăng cường công tác truyền thông giáo dục về bình đẳng giới nhằm chuyển đổi hành vi theo những cách sáng tạo, thiết thực, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh.
Chú trọng nội dung tuyên truyền phù hợp với từng vùng miền, nâng cao nhận thức và vai trò của nam giới trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, đưa nội dung bình đẳng giới, không lựa chọn giới tính thai nhi vào hương ước, quy ước của cộng đồng. Cần phải xử lý nghiêm các trường hợp lựa chọn giới tính thai nhi.
Mặt khác, cần nghiên cứu để từng bước xây dựng các chuẩn mực xã hội, đảm bảo sự bình đẳng của con gái với con trai trong việc thờ cúng tổ tiên, nối dõi tông đường, bảo đảm sự công bằng về vai trò của nam giới và nữ giới trong các hoạt động kinh tế - xã hội và chính trị.
Đồng thời, cần quan tâm hơn nữa việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong hoạch định chính sách nói chung và chính sách về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nói riêng. Để nâng cao chất lượng cuộc sống, cần phát triển các loại dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục cho nam giới cũng như xây dựng và hoàn chỉnh phát triển hệ thống chăm sóc nuôi dưỡng người cao tuổi.
Khi xây dựng chiến lược quốc gia về bình đẳng giới hoặc chương trình hành động quốc gia về bình đẳng giới cho giai đoạn tiếp theo cần chú trọng đưa những chỉ tiêu liên quan đến cả nam giới chứ không nên chỉ đơn thuần là các chỉ tiêu với nữ giới như giai đoạn vừa qua.