Quan điểm xây dựng dự án Luật
Theo Báo cáo của Chính phủ, Dự án Luật Giáo dục (sửa đổi) được xây dựng trên các quan điểm:
Một là, thể chế hóa các quan điểm và định hướng của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã được nêu trong các Nghị quyết: Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nghị quyết số 29-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Hai là, cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp năm 2013 với những nội dung liên quan đến phát triển giáo dục và đào tạo; bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của Luật Giáo dục với các văn bản pháp luật khác có liên quan để quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo.
Ba là, đảm bảo tính toàn diện, khả thi, phù hợp với điều kiện thực tiễn, thiết thực; khắc phục những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi Luật; tạo hành lang pháp lý thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo và huy động được các nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển giáo dục, thúc đẩy hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo.
Bốn là, đảm bảo tính kế thừa và phát triển các quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đảm bảo Luật Giáo dục vừa là Luật khung, làm nền tảng cho các Luật chuyên ngành như giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp... vừa đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các cấp học khác như giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, nhà giáo và người học; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng Luật Giáo dục.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ |
Nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Quốc hội về những chính sách mới
Liên quan đến chính sách không thu học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi, học sinh trung học cơ sở trường công lập và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập, Báo cáo do Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trình bày trước Quốc hội nêu rõ:
Tiếp thu ý kiến của Quốc hội, trên cơ sở đánh giá tác động về cả ngân sách đầu tư và hiệu quả đầu tư, kết hợp tham khảo kinh nghiệm quốc tế về chính sách học phí đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, Chính phủ thảo luận và có Nghị quyết số 104/NQ-CP ngày 8/8/2018 về phiên họp thường kỳ tháng 7/2018.
Theo đó, Chính phủ thống nhất chủ trương thực hiện chính sách miễn học phí đối với trẻ mầm non 5 tuổi, học sinh THCS trường công lập và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập, đặc biệt là đối với các thôn, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 29-NQ/TW; xác định nhu cầu nguồn kinh phí thực hiện chính sách này theo lộ trình phù hợp.
Dự thảo Luật đã bổ sung quy định không thu học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi, học sinh trung học cơ sở trường công lập và hỗ trợ đóng học phí cơ sở ngoài công lập đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập (khoản 1 Điều 97).
Ban soạn thảo đã sửa đổi khoản 1 Điều 97 theo nguyên tắc đối với chính sách không thu học phí trường công lập và hỗ trợ đóng học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi trường dân lập, tư thục sẽ thực hiện ngay sau khi Luật Giáo dục có hiệu lực để đảm bảo thực hiện Nghị quyết 29 về nâng cao chất lượng phổ cập trong những năm tiếp theo và miễn học phí trước năm 2020.
Đối với chính sách không thu học phí học sinh trường THCS công lập và hỗ trợ đóng học phí đối với học sinh trung học cơ sở trường tư thục: Dự thảo Luật quy định trước mắt ưu tiên thực hiện chính sách này đối với người học ở vùng miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và giao Chính phủ quy định lộ trình thực hiện trên cơ sở cân đối ngân sách nhà nước.
Về chính sách nâng chuẩn trình độ được đào tạo đối với giáo viên mầm non từ trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm, Dự thảo Luật quy định trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non tại khoản 1 Điều 72: “Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm đối với giáo viên mầm non”.
Để đảm bảo tính khả thi, dự thảo Luật bổ sung quy định chuyển tiếp tại khoản 1 Điều 119: “Các quy định về trình độ chuẩn của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở quy định tại điểm a, b khoản 1 Điều 72 của Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2026. Chính phủ quy định lộ trình thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng đối với nhà giáo chưa đạt chuẩn”.
Về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, để cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp về việc Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo đủ trường, lớp cho học sinh học tập, không thi tuyển đầu vào đối với giáo dục phổ cập bắt buộc, các quy định về giáo dục phổ thông tại dự thảo Luật đã được quy định theo hướng học sinh được vào học phù hợp với quy định đầu vào các cấp học của giáo dục phổ thông; đảm bảo giáo dục phổ thông đại trà không thi tuyển đầu vào, đảm bảo chính sách đối với đối tượng yếu thế, chính sách đào tạo bồi dưỡng nhân tài.
Về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, Ban soạn thảo đã rà soát và luật hóa một số quy định về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông tại Nghị quyết số 88; quy định cụ thể việc lựa chọn sách giáo khoa theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT.
Theo đó các cơ sở giáo dục phổ thông lựa chọn sách giáo khoa để sử dụng trên cơ sở tham khảo ý kiến của giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh; nâng một số quy định trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 88 thành các quy định của Luật.
Đồng thời, dự thảo Luật đã luật hóa các quy định tại văn bản dưới luật về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; việc lựa chọn, sử dụng sách giáo khoa; sách giáo khoa điện tử, học liệu; Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục, sách giáo khoa; bổ sung quy định thực hiện giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh; bổ sung quy định giao Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quy định việc thực nghiệm một số nội dung, phương thức giáo dục mới trong cơ sở giáo dục phổ thông.
Về chính sách tín dụng sư phạm, quy định không thu học phí của sinh viên ngành sư phạm theo Luật giáo dục hiện hành đã không còn phù hợp với điều kiện thực tiễn do nhu cầu của thị trường lao động đã có sự thay đổi, số sinh viên sư phạm trên cả nước ra trường chưa có việc làm hoặc làm không đúng ngành sư phạm còn nhiều, có tình trạng đi làm trái ngành, nghề gây lãng phí lớn nguồn nhân lực sư phạm.
Nếu thu học phí của sinh viên sư phạm giống như các ngành học khác thì nhà trường sẽ có thêm nguồn thu để bù đắp chi phí đào tạo, tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện khác để bảo đảm chất lượng giáo dục.
Ban soạn thảo đã bổ sung quy định về việc hoàn trả đối với những trường hợp người học không có nhu cầu sử dụng tín dụng sư phạm nhưng ra trường vẫn làm trong ngành giáo dục vào khoản 3 Điều 83 dự thảo Luật. Mặt khác, Ban soạn thảo tiếp tục nghiên cứu để đề xuất các chính sách nhằm thu hút sinh viên giỏi vào ngành sư phạm.
Báo cáo của Chính phủ cũng tiếp thu ý kiến của Quốc hội về chính sách cử tuyển; phổ cập giáo dục; Giáo dục hòa nhập; chính sách tiền lương đối với nhà giáo; Quản lý nhà nước về giáo dục; quản trị của cơ sở giáo dục; đầu tư, tài chính trong giáo dục; việc thí điểm, thực nghiệm trong lĩnh vực giáo dục; thi tốt nghiệp THPT và cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông; mô hình trường công lập cung cấp dịch vụ giáo dục chất lượng cao; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, liên thông và về việc quy định chi tiết, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và kỹ thuật văn bản.
Ngoài ra báo cáo do Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ trình bày cũng giải trình một số nội dung như: Chính sách đối với cán bộ quản lý cơ sở giáo dục; chính sách ưu tiên phát triển nhân tài và tên gọi các cấp học của giáo dục phổ thông.