Giai đoạn “xuống sắc” này được nhiều người định danh bằng một cụm từ khá thú vị là “Hội chứng mãn kinh đàn ông” (Male climacteric syndrome). Trong y học cổ truyền, trạng thái này đã được các y thư cổ đề cập đến từ rất sớm với cơ chế bệnh sinh chủ yếu là do thiên quý, tinh khí và thận khí suy giảm.
Để làm chậm quá trình này, các biện pháp của y học phương Đông là hết sức phong phú như dùng thuốc, châm cứu bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh..., trong đó có một phương thức khá đơn giản và độc đáo là lựa chọn và sử dụng các thực phẩm thông dụng hàng ngày một cách hợp lý dựa trên quan điểm “biện chứng luận trị” của y học cổ truyền cho từng thể bệnh khác nhau. Cụ thể như sau:
Thể can thận âm hư: Được biểu hiện bằng các triệu chứng như người gầy, hay hoa mắt chóng mặt, tính tình dễ cáu giận, lưng đau gối mỏi, tai ù tai điếc, trí nhớ giảm sút, lòng bàn tay bàn chân nóng, bức bối trong ngực, hay có cảm giác sốt nhẹ về chiều, môi khô miệng khát, dương vật dễ cương nhưng nhanh xỉu, tinh dịch bài tiết chậm và ít, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ, lưỡi đỏ và ít rêu. Nên trọng dùng các thực phẩm sau:
Trong trai hến có chứa nhiều kẽm nên rất có lợi cho việc phòng chống u phì đại tiền liệt tuyến lành tính
Vừng đen
Dân gian thường dùng vừng đen phối hợp với hồ đào nhục và tang thầm lượng bằng nhau, tán nhuyễn rồi chưng với mật ong thành dạng cao lỏng, uống khi bụng đói, mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Hoặc vừng đen (xát bỏ vỏ, đồ chín) 1 phần phối hợp với lá dâu non (hái lúc mặt trời chưa mọc) 2 phần, hai thứ sấy khô tán mịn, luyện với mật ong thành dạng viên to bằng hạt ngô đồng, uống mỗi ngày 100 viên với nước ấm vào lúc đói.
Củ mài
Vị ngọt, tính bình, có công dụng tư thận bổ phế, kiện tỳ ích tinh. Sách Bản thảo chính viết: “Sơn dược năng kiện tỳ bổ hư, tư tinh cố thận, trị chư hư bách tổn, trị ngũ lao thất thương” (củ mài có khả năng bổ tỳ thận và ích tinh, trị được mọi chứng hư tổn). Sách Bản thảo kinh độc cũng cho rằng, hoài sơn “năng bổ thận điền tinh, tinh túc tắc âm cường, mục minh, nhĩ thông”.
Cá mực
Vị mặn, tính bình, có công dụng tư âm dưỡng huyết. Sách Biệt lục cho rằng, cá mực có tác dụng “ích khí cường trí”. Sách Y lâm cải thác cũng đã viết: “Ô tặc ngư bổ tâm thông mạch, hòa huyết thanh thận, khứ nhiệt bảo tinh”. Bởi vậy, với đàn ông “mãn kinh” thuộc thể can thận âm hư, cá mực là thức ăn rất có lợi.
Trai hến
Vị ngọt mặn, tính lạnh, có công dụng tư âm thanh nhiệt, dưỡng can minh mục. Sách Tùy tức cư ẩm thực phổ viết: “Bạng nhục (thịt trai) thanh nhiệt tư âm, dưỡng can lương huyết, minh mục định cuồng”. Sách Bản thảo tái tân cũng cho rằng, trai hến có khả năng “trị can nhiệt, thận nhược, thanh lương chỉ khát”.
Theo dinh dưỡng học hiện đại, trong trai hến có chứa nhiều kẽm nên rất có lợi cho việc phòng chống u phì đại tiền liệt tuyến lành tính, căn bệnh rất hay gặp ở đàn ông trung lão niên.
Quả dâu chín
Vị ngọt, tính lạnh, có công dụng bổ can ích thận, tư âm minh mục. Sách Bản thảo kinh sơ viết: “Tang thầm cam hàn, ích huyết nhi trừ nhiệt, vị lương huyết bổ huyết ích âm chi dược. Ngũ tạng giai thuộc âm, ích âm cố lợi ngũ tạng. Thoái nhiệt âm sinh, tắc can tâm vô hỏa, thần thanh tắc thông minh nội phát”. Dân gian thường dùng tang thầm dưới dạng ngâm đường để pha nước giải khát, ngâm rượu hoặc chế thành mứt dâu.
Ngoài ra, các thực phẩm có công dụng bổ can thận âm khác như bồ dục lợn, thịt vịt, ba ba, cá quả, hàu, ếch, hải sâm, hà thủ ô, kỷ tử, ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng), tổ yến... đều rất thích hợp với thể bệnh này.