Da trâu
Da trâu cạo bỏ hết lông, thịt, gân, màng, cắt thành từng miếng, phơi hay sấy khô. Khi dùng, để nguyên bản hoặc chế biến thành keo theo cách ngâm da trâu vào nước vôi trong 1 ngày đêm. Sau đó, rửa sạch, luộc chín, rồi cắt nhỏ, nấu với nước xâm xấp và sôi liên tục trong 1 ngày, 1 đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô cách thủy thành cao đặc, tên thuốc là minh giao. Dược liệu có vị mặn, ngọt, mùi hơi tanh, tính bình, không độc, có tác dụng giảm đau, cầm máu, nhuận táo, có công dụng trị phong thấp, chân tay đau nhức, tiểu són, động thai, thổ huyết.
Danh y Tuệ Tĩnh đã dùng cao da trâu trong những trường hợp sau:
Chữa đau vú: keo da trâu nấu với ít giấm cho tan, rồi đắp dán.
Chữa động thai: keo da trâu 20g, tầm gửi cây dâu 50g, lá ngải cứu 12g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.
Chữa thổ huyết, băng huyết, đái ra máu: cao da trâu 4g, sợi bông 4g, đốt thành tro uống trong ngày.
Sản phụ bị rong huyết do cơ năng: cao da trâu 20g, ngải cứu tươi 15g, ngũ bội tử 15g tán bột. Sắc ngải cứu lấy nước, bỏ bã, thái cao da trâu cho vào đun loãng ra, rồi hòa với bột ngũ vị tử, uống ngày 1 thang.
Chữa tiểu són: cao da trâu, vỏ hàu (nung đỏ), lộc nhung, tang phiêu diêu (sao với rượu), liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với hồ nếp hoàn viên bằng hạt ngô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 25 viên với nước muối pha ít rượu vào lúc đói.
Chữa rong kinh, băng huyết: cao da trâu 10g, muội nồi 8g, cao ích mẫu 3g, trộn đều, uống với nước đun sôi để nguội.
Chữa phong thấp, chân tay đau nhức: da trâu 40g, ngâm nước cho mềm, cắt nhỏ, trộn nước cốt gừng, nấu nhỏ lửa cho đặc quánh. Để nguội, phết thuốc lên giấy, dán vào chỗ đau.
Thuốc cầm máu theo kinh nghiệm dân gian: da trâu khô đốt thành than, tán nhỏ, rắc vào nơi tổn thương.
Da rắn
Da rắn còn gọi là xác rắn lột được lấy từ nhiều loại rắn, nhưng tốt nhất là rắn ráo. Dùng sống hoặc phun rượu cho ướt đều, ủ cho ấm rồi sao nhẹ cho khô. Dược liệu có vị ngọt mặn, hơi tanh, tính bình, không độc, có tác dụng sát khuẩn, chống viêm, giải độc.
Da rắn (xác rắn lột) chống viêm, chữa bệnh trĩ.
Chữa viêm họng: Xác rắn lột cho vào ống tre, đốt lấy khói xông vào cổ họng.
Thuốc đắp chữa nhọt cứng sần (không có mủ): xác rắn lột cắt nhỏ, sao qua, tán bột, tẩm với rượu cho thành bánh, đắp vào nơi tổn thương
Chữa bệnh ngoài da, đầu vú bị nứt nẻ: xác rắn 100g đốt tồn tính, tán nhỏ, rây bột mịn; củ ráy dại 100g, nghệ vàng 100g để tươi, thái mỏng, cho vào dầu vừng, rán khô, bỏ bã. Trộn bột xác rắn lột với dầu các dược liệu, bôi hàng ngày.
Chữa bệnh trĩ: xác rắn lột 1 cái, lá cam sành 1 nắm, phơi khô, đốt thành than, tán bột, hòa với nước cơm bôi.
Đồng bào Thượng ở Tây Nguyên lại dùng xác rắn lột nấu nước uống chữa da khô, ngứa ngáy, hay bong vảy.
Da lừa
Da lừa nấu thành cao gọi là a giao hay cao da lừa thường được dùng làm thuốc bổ. Theo Đông y, a giao có vị ngọt, tính bình, không độc, vào 3 kinh: phế, can, thận. A giao có tác dụng dưỡng huyết, chữa hư hao gầy gò, xuất huyết tiêu hóa, ho ra máu, chảy máu cam... với liều dùng hàng ngày là 6-12g. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc trong các trường hợp sau:
Chữa tăng huyết áp, kinh nguyệt nhiều: a giao 6g, bồ hoàng 5g, cam thảo 2g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm 1 lần trong ngày.
Chữa ho ra máu: a giao 8g sao cho phồng, đơn bì 12g, bạch linh 6g, mạch môn 12g; sơn thù, trạch tả tẩm muối sao, hoài sơn mỗi vị 16g, thục địa 60g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, làm viên 10g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 viên.
Chữa đại tiện ra máu: a giao 12g sao cho phồng, đương quy 8g, xích phục linh 8g, hoàng liên 12g, hoàng nghiệt 6g sao đen, ô mai 6g, gừng nướng thành than 4g, xích thược 2g. Sắc uống.
Trị huyết nhiệt, tiểu ra máu: a giao 4g sao phồng, sinh địa 8g, hoàng cầm đã sao 20g, trắc bá diệp (sao) 4g. Sắc uống sau bữa ăn.