Đình Bình Thủy được xây dựng vào năm 1844 tại làng Bình Hưng, tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên (nay là phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ). Trước đó, đình là một ngôi miếu cổ có tên “Long Tuyền cổ miếu”.
Sóng lớn Long Tuyền giang
Theo một số sử liệu và giai thoại dân gian, đoạn sông Long Tuyền giang có hình dáng như con rồng uốn khúc, vàm sông giống như miệng rồng há to ngoạm ngọc châu là đất cồn Linh.
Thời vua Tự Đức năm thứ 5 (1852) quan Khâm sai đại thần là Huỳnh Mẫn Đạt được phái đi tuần thú an dân. Quan Khâm sai cùng đoàn tùy tùng đi thuyền dọc sông Hậu đến cồn Linh nơi đầu vàm rạch Long Tuyền thì gặp trận cuồng phong lốc xoáy.
Sóng hung dữ cuốn cao như muốn nhấn chìm đoàn thuyền. Quan Khâm sai khấn thần linh độ mạng rồi lệnh cho thủy binh ra sức chèo thẳng vào vàm ẩn nấp. Mặc dù ngoài sông sóng cả dập dềnh, nhưng bên trong vàm mặt nước bình yên chỉ hơi gợn sóng, đoàn thuyền được bình an.
Thoát nạn, quan Khâm sai hạ lệnh cho binh sĩ lên bờ lập đàn cúng tế, mở tiệc khoản đãi dân làng và đổi tên nơi đây là Bình Thủy – với ý nghĩa nơi dòng nước bình an. Khi về triều, quan đại thần Huỳnh Mẫn Đạt dâng sớ lên vua Tự Đức kể rõ sự tình, xin ban sắc phong thần cho làng Bình Thủy.
Ngày 29/11/1852, vua Tự Đức hạ chiếu ban sắc phong cho vùng đất này: Vì sự quảng hậu chính trực, ngươi đã phù hộ quốc gia, bảo vệ dân chúng từ xưa đến nay. Lệnh ban cho ngươi danh hiệu Thành hoàng Bổn cảnh thuộc huyện Phong Phú, làng Bình Thủy. Ngươi lãnh trách nhiệm như cũ, săn sóc và giúp đỡ dân chúng của ta.
Sau khi có sắc phong của triều đình nhà Nguyễn, người dân địa phương đã cùng nhau tôn tạo ngôi miếu cổ Long Tuyền. Vì thế, cho đến nay một số ý kiến cho rằng, tiền thân đình Bình Thủy chính là miếu cổ Long Tuyền. Vào năm 1904, quan Tri phủ Nguyễn Đức Nhuận thấy đình xuống cấp nên đề nghị dân làng cất lại ngôi đình ở ngã tư trên sở đất của làng rộng 2,9 ha.
Không may, giữa lúc công trình xây dựng còn dang dở thì quan Tri phủ bệnh nặng qua đời. Việc xây dựng ngôi đình tạm đình chỉ nhưng thành tạm dừng vĩnh viễn. Mãi đến năm 1909, chủ làng Nguyễn Doãn Cung cùng thông gia giàu có cùng góp tiền xây dựng ngôi đình trên nền cũ tại vàm sông.
Công trình là sự giao thoa những giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ truyền trong giai đoạn khai hoang miền đất phương Nam, kết hợp với văn hóa Trung Hoa. Đình được thiết kế có chủ đích, không rập khuôn nên tạo sự mới lạ.
Chính điện và nhà sau có thiết kế theo kiến trúc “thượng lầu hạ hiên”, với các mái chồng lên nhau khá kỳ vĩ. Ngoài ra, trên nóc đình còn có tượng hình cá hóa rồng, kỳ lân và hình nhân.
Phía góc trái nóc đình có trang trí cuốn thư giống với các mái đình miền Bắc. Bên cạnh đó còn có bình hoa và giỏ lam đào, ở bìa mái ngói dưới cùng ốp hình lá xoài tráng men xanh. Mặt trước nhà là hàng cột trang trí các họa tiết hoa lá vô cùng tinh tế.
Ở giữa tiền đường có đặt bàn thờ thờ Nghi Trung, Nghi Hạ. Gian trong đặt bàn thờ Nghi Thượng, thường để người dân dâng hoa, cúng bái cho các ngày hội. Tòa chính điện, bên trái là bàn thờ Hương chức Tiên Giáo, phía trong là Hậu tiền.
Sát vách trong cùng ở gian giữa có đặt bàn thờ Hậu thần, hai bàn thờ hai bên là Tả Bang và Hữu Bang. Phía bên ngoài đình có lập hai miếu lớn thờ Thần Hổ và Thần Nông.
Bộ cốt Thần Hổ
Theo các cao niên, lần xây dựng năm 1909 đình Bình Thủy có thêm 2 ngôi miếu thờ Thần Nông và Thần Hổ. Trong tất cả những lần xây dựng, bộ cốt Thần Hổ vẫn luôn được lưu giữ thờ phụng trong đình.
Bởi vậy, người dân cho rằng đình Bình Thủy được nâng cấp từ ngôi miếu cổ Long Tuyền thờ Thần Hổ. Từ năm 1844, ngôi miếu đã có sẵn nên được gọi là cổ miếu. Có nghĩa là ngôi miếu tồn tại từ rất lâu, trước khi có ghi chép vào năm 1844.
Giai thoại địa phương kể rằng, ngày xưa ở vùng này có con cọp tu lâu năm, tánh linh như người. Ở vàm ngã tư có một phụ nữ tên Bé sống một mình, chồng đăng lính triều Nguyễn đi trấn giữ vùng biên cương Cao Miên.
Trước khi chia tay vợ, người lính đốt hương đứng trước một gốc đại thụ khấn xin Thành hoàng, thổ địa bảo trợ người vợ trẻ để ông ta yên tâm làm nhiệm vụ với đất nước. Một con cọp đã tu lâu năm, tính hiền, nấp sau gốc đại thụ nghe lời khấn.
Một đêm nọ, con cọp nghe tiếng bà vợ rên rỉ đau bụng chuyển dạ đẻ đã chạy thẳng đến nhà một bà mụ. Bà mụ đang ngủ mơ màng, mở mắt ra trông thấy con cọp sợ quá ngất xỉu, cọp tha bà mụ đến tận cửa nhà bà Bé.
Khi tỉnh dậy, bà mụ quáng quàng chạy vào nhà bà Bé và phát hiện bà Bé cần cứu giúp. Bà mụ đã giúp bà Bé vượt cạn thành công trong cơn thập tử nhất sinh.
Sáng sớm hôm sau, khi mở cửa bà mụ đã trông thấy một con lợn rừng nằm chết trong sân, trên thân đầy vết vuốt cọp. Sực nhớ diễn biến đêm qua, bà mụ biết con cọp đã bắt lợn để trả lễ. Cho rằng đó là hổ thần bảo vệ dân làng, bà mụ và bà Bé cùng dựng một ngôi miếu để thờ Thần Hổ.
Hổ làm Thành hoàng làng
Ngoài giai thoại trên, người dân địa phương còn truyền tụng rất nhiều câu chuyện khác liên quan đến việc Thần Hổ cứu người khi gặp hoạn nạn. Khi hổ chết, dân làng tiếc thương lấy thi thể làm tượng cốt đặt trong miếu thờ.
Nơi vàm sông, người ta đặt tên là vàm Ngã Tư Bé. Khi miếu được xây dựng thành đình sau biến cố quan Khâm sai đại thần gặp nạn, dân địa phương vẫn xem Thần Hổ là “ông Cả” - tức Thành hoàng Bổn cảnh của làng.
Bộ cốt Thần Hổ vẫn được lưu giữ nguyên vẹn đặt trên bệ thờ cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, sau này nhiều người đến viếng đình cứ lén vặt râu, lông Thần Hổ để làm thuốc.
Ở đình Bình Thủy hiện nay có hai khu vực thờ Thần Hổ, một ở khuôn viên đình - thờ trong miếu, một ở chánh tẩm thờ bộ cốt. Đây là trường hợp đặc biệt ít thấy ở các ngôi đình Nam Bộ. Bộ cốt hổ thờ trong chánh tẩm được cúng bằng vật phẩm tam sên; còn miếu thờ được cúng bằng một con lợn trắng và xôi bánh trong các dịp Kỳ Yên.
Lễ Kỳ Yên thượng điền diễn ra từ ngày 12 - 14/4 âm lịch. Đây là lễ hội cúng Thành hoàng Bổn cảnh. Sự kiện này gồm nhiều nghi thức như cúng tế, cầu ai, thỉnh sắc thần, hát bội.
Lễ Kỳ Yên hạ điền diễn ra từ ngày 14/12 - 15/12 âm lịch với sự tham gia đông đảo của người dân. Bên cạnh những nghi thức cúng bái, trong khoảng thời gian diễn ra lễ hội còn tổ chức nhiều phong tục, trò chơi dân gian như hát tiều, hát bội, thả vịt, thi kéo co, thi nấu ăn.
Xưa kia, khi đường giao thông bộ chưa mở rộng, lễ rước sắc thần diễn ra trên sông bằng thuyền rồng và bè thủy lục, nay đã được thay thế bằng long xa và các phương tiện giao thông đường bộ.
Với những giá trị văn hóa đặc sắc, năm 1989 đình Bình Thủy đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. Năm 2001, đình được đầu tư trùng tu tôn tạo tổng thể, trở thành một di sản văn hóa có ý nghĩa đặc biệt đối với nhân dân vùng sông nước Cần Thơ.