Một giờ học tại Trường Tiểu học xã Miền Đồi (Lạc Sơn, Hòa Bình) |
(GD&TĐ) - Đến nay, hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) và trường dự bị đại học (DBĐH) cơ bản đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn cán bộ người DTTS cho các địa phương trong vùng DTTS, vùng miền núi.
Nhiều khởi sắc
Theo Bộ GD&ĐT, cho đến nay trẻ mẫu giáo ở miền núi, vùng DTTS được chuẩn bị tiếng Việt trước khi vào lớp 1. Trẻ 5 tuổi được phổ cập GD Mầm non theo Đề án Phổ cập GD Mầm non cho trẻ 5 tuổi. Trẻ em mẫu giáo 3-5 tuổi ở các cơ sở GD mầm non có cha mẹ thường trú ở các xã biên giới, núi cao, hải đảo và các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hỗ trợ 120.000 đồng/ tháng (một năm học 9 tháng) để duy trì bữa ăn trưa tại trường.
Còn đối với HS, SV, việc thực hiện chính sách cử tuyển theo quy định đã góp phần nâng cao cơ hội học tập và tạo động lực vươn lên cho HS vùng DTTS, vùng miền núi đào tạo được đội ngũ trí thức dân tộc, tăng cường số lượng cán bộ có trình độ cho công cuộc phát triển kinh tế- xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương vùng DTTS, vùng miền núi từ năm 2007- 2011. Sinh viên cử tuyển được hưởng học bổng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh đó, nhà giáo và CBQLGD vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi. Ngày 23/2/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2013/NĐ - CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 61/2006/NĐ - CP của Chính phủ.
Nghị định này điều chỉnh về thời gian được hưởng phụ cấp thu hút, trợ cấp chuyển vùng và trợ cấp lần đầu đã động viên, khuyến khích nhà giáo và CBQLGD công tác nhiều vùng miền núi, vùng DTTS.
Chính sách phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, vùng KT- XH đặc biệt đã quan tâm đến nhiều mặt và nhiều đối tượng (trẻ em, học sinh, sinh viên, giáo viên...).
Ngoài chế độ, chính sách của Nhà nước có tính ổn định, còn có các chương trình, đề án, dự án về phát triển giáo dục vùng khó khăn, các tổ chức, cá nhân đều ưu tiên cho GD&ĐT vùng DTTS, vùng miền núi... Trường lớp, các cấp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đảm bảo đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
Tỷ lệ HS đến trường tăng cao, HS lưu ban, bỏ học ngày càng giảm, tỷ lệ HS tốt nghiệp tăng rõ rệt. Hệ thống GD chuyên biệt ngày càng phát huy vai trò tích cực. Chế độ cử tuyển đã góp phần đáng kể trong việc đào tạo cán bộ có trình độ người DTTS ở địa phương.
Rút ngắn khoảng cách giáo dục giữa các vùng miền
HS dân tộc ngày càng được học tập trong điều kiện cơ sở vật chất tốt |
Đã có nhiều kết quả và ưu điểm đáng chú ý, song GD DTTS vẫn còn những hạn chế, bất cập. Quy mô trường PTDTNT phát triển không đồng đều giữa các địa phương. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo của trường PTDTNT; Chế độ chính sách cho người học cũng còn hạn chế, bất cập; Mức hỗ trợ cho HS, SV người DTTS theo các chính sách đã ban hành còn thấp so với nhu cầu thực tế của các em.
Còn có sự bất bình đẳng về chính sách đối với HS, SV: HS DTTS học theo diện cử tuyển được hưởng chính sách học bổng, còn HS DTTS thi đỗ và đang học tại các trường ĐH, CĐ lại chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ chi phí học tập; 7 dân tộc rất ít người chưa được hưởng các chính sách đặc thù.
Thêm nữa, chính sách cử tuyển vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Công tác quy hoạch cán bộ người DTTS, cơ cấu ngành, nghề đào tạo cử tuyển của nhiều địa phương chưa sát với tình hình phát triển KT- XH, nên nhiều SV tốt nghiệp hệ cử tuyển trở về địa phương không được bố trí công tác.
Kinh phí do địa phương chi trả các trường không đủ bù đắp chi phí đào tạo. Một số địa phương thực hiện chưa nghiêm quy định về cử tuyển (sai đối tượng, sai khu vực), chất lượng đầu vào các trường CĐ, ĐH thấp.
Trong khi đó, đối tượng viên chức ở các trường PTDTNT không thuộc vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn chưa được hưởng các chính sách đặc thù. Chất lượng GDĐT ở các vùng miền núi, vùng DTTS một số nơi còn thấp so với yêu cầu, tỷ lệ HS có học lực khá, giỏi thấp.
Theo định hướng Bộ GD&ĐT đưa ra về công tác phát triển GD&ĐT miền núi, vùng DTTS, trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT sẽ phối hợp với các bộ, ngành địa phương tiếp tục tham mưu, chỉ đạo phát triển GD vùng miền núi, vùng DTTS, từng bước rút ngắn khoảng cách về GD giữa các vùng miền, thực hiện công bằng trong GD.
Bên cạnh đó, sẽ rà soát các chính sách phát triển GDĐT vùng DTTS, miền núi, từ đó đề xuất, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành liên quan sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách phát triển GDĐT vùng DTTS, miền núi giai đoạn mới.
Bộ GD&ĐT cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo phát triển mạng lưới trường lớp DTTS, vùng miền núi, tiếp tục thực hiện Quyết định số 1640/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án củng cố, phát triển hệ thống trường PTDTNT giai đoạn 2010 - 2015.
Mở rộng quy mô các trường PTDTNT; Mở rộng đào tạo liên cấp THCS, THPT ở các trường PTDTNT cấp huyện ở các địa phương có nhu cầu; Phát triển các trường PTDTBT theo quy hoạch, kế hoạch, đáp ứng nhu cầu học tập của HS các DTTS.
Bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ nhà giáo và CBQLGD, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá trong dạy học để nâng cao chất lượng GDĐT ở vùng DTTS, vùng miền núi. Sửa đổi, bổ sung Thông tư số 59/2008/TT-BGDĐT ngày 31/10/2008 của Bộ GD&ĐT về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp GD ở các trường chuyên biệt, công lập.
Bộ GD&ĐT cũng đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách quy định hỗ trợ chi phí học tập cho SV DTTS hộ nghèo, cận nghèo thi đỗ vào ĐH, CĐ; ban hành quyết định về việc hỗ trợ gạo thường xuyên cho HS bán trú khu vực miền núi và vùng có điều kiện KT - XH đặc biệt khó khăn.
Đồng thời, Bộ GD&ĐT đề nghị Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định sửa đổi cơ chế hỗ trợ đối với các chính sách đã ban hành, mở rộng đối tượng cho 7 dân tộc rất ít người còn lại được hưởng chính sách theo Quyết định số 2133/2010/QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người giai đoạn 2010 – 2015; ban hành chính sách hỗ trợ HS người DTTS học chương trình cấp THCS và THPT tại các trung tâm GD thường xuyên; ban hành chính sách đối với viên chức làm công tác thư viện, thiết bị, thí nghiệm, hành chính, y tế và các nhiệm vụ khác... ở các trường PTDTNT không thuộc vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn được hưởng các chính sách đặc thù theo Nghị định số 116/NĐ- CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ về chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở vùng có điều kiện KT- XH đặc biệt khó khăn.
Tính đến năm học 2012 - 1013, có 300 trường PTDTNT ở 50 tỉnh, thành phố (3 trường trực thuộc Bộ GD&ĐT, 50 trường cấp tỉnh, 247 trường cấp huyện); 569 trường PTDTNT (157 trường PTDTBT cấp tiểu học và 412 trường PTDTBT cấp THCS); 5 trường DBDH và 4 khoa dự bị thuộc 4 trường ĐH quy mô hơn 3.000 HS/năm. |
Thanh Tuấn