Những nghề nghiệp chỉ còn trong quá khứ

GD&TĐ - Trong thế giới hiện đại, không ít nghề sẽ được thay thế bởi robot và trí tuệ nhân tạo. Cũng không ít nghề nghiệp “hái ra tiền” trong quá khứ đã hoàn toàn rơi vào quên lãng, sau khi một số công nghệ dễ sử dụng hơn được phát minh để thay thế.

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ

Nghề đánh thức thuê

Nhiều thập kỷ trước khi đồng hồ báo thức trở nên phổ biến, mọi người phụ thuộc vào tiếng gõ cửa phòng ngủ để kéo họ khỏi giấc ngủ. Điều thú vị là nghề này kéo dài đến những năm 1970.

Thoạt đầu, những người làm nghề này gõ cửa hoặc rung chuông cửa những khách hàng trả tiền cho họ. Tuy nhiên, họ sớm phát hiện ra rằng, điều này có hại cho việc kinh doanh. Những người hàng xóm thường phàn nàn rằng tiếng ồn đã đánh thức họ và những người đánh thức cũng nhận ra nhiều khách hàng không trả tiền cho họ. Vì vậy, họ bắt đầu gõ vào cửa sổ của khách hàng của họ bằng những chiếc cọc dài. Tiếng gõ đủ lớn để đánh thức khách hàng, nhưng lại không quá ầm ĩ để có thể đánh thức người khác. Người đánh thức không di chuyển cho đến khi bảo đảm rằng khách hàng của họ đã thức dậy và rời đi sau ba hoặc bốn lần gõ. Nghề này bắt đầu biến mất khi điện và đồng hồ báo thức trở nên phổ biến. Những người làm nghề đánh thức đã ngừng công việc của mình vào những năm 1940 và 1950 và nghề này hoàn toàn tuyệt chủng vào những  năm 1970.

Nghề cắt băng

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 1

Từ năm 1800 - 1920, người ta bảo quản thực phẩm bằng nước đá lấy từ các ao nước bị đông lạnh do những người cắt băng sử dụng rìu phá và sau đó là máy cưa băng cầm tay. Ngành công nghiệp này phát triển vượt bậc đến nỗi những người cắt băng bắt đầu sử dụng những chiếc cưa băng lớn đến mức cần ngựa để kéo.

Ở vùng Tây Bắc nước Mỹ, phần lớn băng được lấy từ nước ngọt tự nhiên đóng băng trong khoảng thời gian từ tháng Giêng đến tháng Hai. Công việc thật tẻ nhạt. Những người cắt băng làm việc bảy ngày một tuần, 10 giờ một ngày, để thu hoạch đủ đá trước khi nhiệt độ tăng dần vào tháng Ba. Không chỉ nhàm chán, việc này cũng nhiều rủi ro. Họ luôn có nguy cơ bị rơi xuống mặt nước buốt giá dưới lớp băng đang cắt.

Những con ngựa cũng không tránh khỏi những nguy hiểm. Chúng cũng có nguy cơ bị rơi xuống nước, trong khi phân của chúng cũng làm ô nhiễm băng. Hầu hết, những người làm nghề cắt băng đều thuê một cậu bé dọn phân ngựa và bỏ phân vào một chiếc xe trượt tuyết bằng gỗ không thấm nước.

Đá sau khi thu hoạch được lưu trữ trong các kho gọi là nhà băng để xuất khẩu sang các khu vực khác của Mỹ và châu Âu. Các nhà băng được xây bằng tường đôi, nhô lên khỏi mặt đất và chứa đầy cát, rơm, mùn cưa, cỏ khô, than củi, vỏ cây và bất cứ thứ gì có thể ngăn băng tan. Những công trình kiến trúc này cũng nằm xa cây cối vì lo ngại rằng, băng có thể bị ẩm và tan chảy.

Tuy nhiên, ngành cắt băng khá bất ổn, vì băng có thể tan hoặc hình thành một cách thất thường. Hiếm khi những người cắt băng có được mùa thu hoạch thuận lợi liên tiếp. Người kiếm được nhiều hơn cả là những nông dân sở hữu ao nước. Đôi khi, họ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán đá từ các ao đông lạnh của họ hơn là từ việc bán hàng rong. Ngành công nghiệp này đã biến mất sau khi phát minh ra tủ lạnh điện. 

Match Maker

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 2

Nhiều thế kỷ trước, các công ty bán diêm đã sử dụng lực lượng lao động toàn nữ để làm diêm. Công việc nhiều nguy hiểm và khá tẻ nhạt. Điều này đặc biệt đúng ở các công ty như Bryant và May bởi họ trả lương thấp, công nhân làm việc quá sức và phải sử dụng phốt pho trắng nguy hiểm.

Những cô gái làm diêm ở Bryant và May làm việc 14 giờ một ngày. Họ thường bị phạt vì những vi phạm nhỏ như đánh rơi que diêm, nói chuyện với đồng nghiệp hoặc đi làm muộn. Tuy nhiên, mối đe dọa lớn nhất của họ là từ phốt pho trắng mà họ phải tiếp xúc hàng ngày. Đó là một chất cực độc, có thể gây ra một căn bệnh gọi là “hoại tử hàm”, mà các quý cô gọi là “hàm hô”. Căn bệnh làm thối xương hàm. Đôi khi, nó lan lên não, khiến người bệnh chết một cách chậm chạp và đau đớn. Nó chỉ có thể được điều trị bằng cách loại bỏ hàm bị hư hỏng. Tuy nhiên, điều này cũng có thể dẫn đến tử vong.

Trợ giảng trực tràng

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 3

Trong khi chúng ta đắm chìm trong những cuộc tranh luận về việc liệu một ngày nào đó robot và trí tuệ nhân tạo có chiếm được công việc của chúng ta hay không, thì thực tế, những robot đã giành lấy công việc của những người trợ giảng trực tràng.

Các nhân viên y tế thường chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt bằng cách đưa ngón tay vào hậu môn để cảm nhận tuyến tiền liệt. Tại một thời điểm nhất định, họ được thực hành với trực tràng của một con người sống, người được gọi là trợ giảng trực tràng. Chỉ có một người đàn ông trên toàn Vương quốc Anh được cấp phép làm việc này.

Lo ngại về tình trạng thiếu trợ lý trực tràng, các nhà khoa học tại Đại học Imperial College London đã phát triển một trực tràng robot, mô phỏng trực tràng người thật. Các nhà phát minh nói rằng, robot tốt hơn con người. Máy ảnh bên trong robot cho phép nhân viên y tế nhìn thấy bên trong trực tràng của robot trên màn hình máy tính. Một trợ giảng trực tràng không thể giúp người thực hành có được những hình ảnh này.

Thật không may, việc tạo ra robot đồng nghĩa với việc người trợ giảng trực tràng duy nhất được cấp phép ở Vương quốc Anh mất việc. 

Máy tính người

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 4

Những “máy tính người” đầu tiên của xuất hiện vào năm 1939 khi Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực ở California thuê Barbara   Canright làm công việc này. Canright chịu trách nhiệm tính toán mọi thứ, từ lượng lực cần thiết để đưa một chiếc máy bay lên không đến lượng thuốc phóng tên lửa cần thiết để đưa một tên lửa vào không gian.

Các phép tính phức tạp đã được thực hiện chỉ bằng bút chì và giấy. Việc xác định thời gian di chuyển của tên lửa mất cả ngày, và một số tính toán khác có thể mất cả tuần. Người thực hiện có thể phải sử dụng hết 8 cuốn sổ cho một phép tính duy nhất. Sau khi Mỹ tham gia vào Thế chiến thứ hai, Canright có thêm những đồng nghiệp là Melba Nea, Virginia  Prettyman và Macie Roberts.

Các “máy tính người” tập trung nỗ lực vào cuộc chạy đua không gian sau chiến tranh. Họ chịu trách nhiệm về các tính toán khổng lồ đưa vệ tinh đầu tiên của Mỹ lên quỹ đạo, tàu thăm dò Voyager vào không gian, máy bay không người lái đầu tiên trên sao Hỏa, Neil Armstrong và phi hành đoàn Apollo 11 trên Mặt trăng.

Máy tính người vẫn chiếm ưu thế khi NASA bắt đầu thử nghiệm với máy tính cơ học vào những năm 1950. Hầu hết, mọi người đều tin rằng con người đáng tin cậy hơn máy móc. Tuy nhiên, nghề này đã sớm đi vào dĩ vãng do sự phát triển nở rộ của máy tính. 

Nghề dựng ki

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 5

Cách đây vài thập kỷ, các sân chơi bowling đã thuê những chàng trai trẻ đặt lại một cách thủ công những con ki bị rơi và trả lại bóng bowling cho người chơi. Công việc được trả lương thấp và thường là bán thời gian. Tuy nhiên, nó lại có những đòi hỏi nhất định, vì họ phải làm việc đến nửa đêm.

Điều này bắt đầu thay đổi khi Gottfried Schmidt phát minh ra máy dựng ki cơ học vào năm 1936. Chiếc máy này chỉ là bán tự động và vẫn cần sự can thiệp của con người. Một số sân chơi  bowling đã không sử dụng máy cơ học và tiếp tục sử dụng người trong công việc này. Tuy nhiên, những người làm nghề này và máy bán tự động đã sớm nhường chỗ cho những chiếc máy hoàn toàn tự động.

Người đốt đèn

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 6

Những chiếc đèn đường công cộng đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ 18, sử dụng dầu cá làm nhiên liệu. Những chiếc đèn này cần có người thắp sáng chúng vào ban đêm và tắt chúng đi khi trời sáng. Đèn đường dầu cá sau đó đã được cải tiến sau khi đèn khí được phát minh. Tuy nhiên, kiểu đèn này cũng cần đến người thắp đèn.

Những người này đã sử dụng những chiếc cọc dài để thắp sáng đèn vào ban đêm và dập tắt ngọn lửa vào buổi sáng. Thợ thắp đèn cũng chịu trách nhiệm vệ sinh, bảo dưỡng và sửa chữa đèn.

Nghề này bắt đầu lụi tàn vào những năm 1870 khi những chiếc đèn đường điện đầu tiên xuất hiện. Đèn điện đã khiến các mẫu đèn dùng xăng trở nên lỗi thời ở Mỹ. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ, Vương quốc Anh vẫn sử dụng đèn khí vì đèn điện gây tranh cãi ở đó vào thời điểm đó. Cuối cùng, Vương quốc Anh đã bỏ đèn khí và sử dụng đèn điện.

Nhiều người phàn nàn rằng, đèn điện chói mắt, xấu xí và quá sáng so với ban đêm. Những người khác cho rằng điện rất đắt. Hiệp hội Khí đốt Thương mại Anh đã quảng cáo đèn khí đốt như một giải pháp thay thế tốt hơn để cố tình phá hoại việc áp dụng đèn điện. Đến những năm 1930, đèn điện mới được lên ngôi. Tuy nhiên, khoảng 1.500 ngọn đèn gas vẫn còn tồn tại ở      London vì những lý do lịch sử.

Thợ lái gỗ

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 7

Trước khi xe lửa và xe tải ra đời, thì gỗ sau khi được khai thác từ rừng sâu sẽ được lăn ra sông để theo dòng chảy về hạ lưu. Tuy nhiên, đôi khi những khúc gỗ mắc kẹt thành hàng dặm dài, thậm chí cần phải sử dụng thuốc nổ để tháo dỡ chỗ kẹt. Một nghề mới đã xuất hiện trong quá trình những khúc gỗ trôi dạt về phía hạ lưu và dọn sạch các khúc gỗ, đó là những người điều khiển đường đi của những súc gỗ trôi dạt này.

Công việc rất nguy hiểm và tẻ nhạt. Những người đàn ông này thường theo dõi các khúc gỗ trên những chiếc thuyền đặc biệt. Đôi khi, họ thậm chí nhảy từ khúc gỗ này sang khúc gỗ khác khi gỗ trôi về phía hạ lưu. Nhiều người không may bị rơi xuống nước và chết đuối trong lèo lái các khúc gỗ. Một số người khác bị gỗ đè chết hoặc kẹt giữa các khúc gỗ.

Người gom đỉa

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 8

Người thu gom đỉa là một nghề ngắn ngủi xuất hiện và biến mất vào những năm 1800. Vào thời điểm đó, phương pháp hút máu được sử dụng để hút máu khỏi cơ thể để chữa bệnh. Các thầy thuốc đã áp dụng phương pháp đỉa để hút máu bệnh nhân của mình.

Những người thu gom đỉa sớm xuất hiện để đáp ứng nhu cầu cao về đỉa. Những công việc này thường được thực hiện bởi những phụ nữ nghèo đi lấy đỉa từ các ao hồ và các khu vực khác có nhiều sinh vật. Những người thu mua đã sử dụng chân của họ hoặc chân của những con ngựa già làm mồi nhử để thu hút đỉa.

Những người phụ nữ cho phép những con đỉa hút máu của họ trong khoảng 20 phút cho đến khi chúng no máu và có thể dễ dàng bắt chúng. Điều này thường gây ra các vết thương chảy máu trong nhiều giờ và dẫn đến mất máu đáng kể. Nhưng máu chảy ra thu hút nhiều đỉa hơn, điều này rất tốt cho việc kinh doanh.

Nghề bắt đầu lụi tàn sau khi đỉa trở nên khan hiếm. Cũng trong khoảng thời gian đó, các bác sĩ bắt đầu nghi ngờ vào hiệu quả của việc cho đỉa hút máu. Những tiến bộ của y học đã sớm chứng minh rằng thủ thuật này không hiệu quả và thực sự nguy hiểm. Thủ thuật chữa bệnh bằng đỉa kết thúc và nghề thu gom đỉa tuyệt chủng.

Nghề đổ thùng

Những nghề nghiệp chỉ  còn trong quá khứ ảnh 9

Cách đây vài thế kỷ, cái mà chúng ta gọi là nhà vệ sinh chỉ là một tấm ván nhô lên với một lỗ ở giữa, thay vì một bồn cầu xả nước. Người sử dụng chỉ đơn giản là ngồi trên đó để chất thải rơi xuống dưới. Thùng chứa nhanh chóng đầy và cần được làm trống. Đây là việc của người đổ thùng.

Những người phu đổ thùng gồng mình bước vào những cái bể kín chứa đầy phân đến tận eo của họ. Đôi khi, họ thuê những đứa trẻ bé nhỏ hơn để làm công việc này. Các cậu bé xúc phân vào xe đẩy để vận chuyển đến bãi chứa, nơi chất thải được chuyển thành phân bón.

Những người phu đổ thùng bốc mùi hôi thối rất nhiều, nhất là khi việc tắm là xa lạ với người dân thời Trung cổ. Họ hôi hám đến mức thường bị nhốt trong nhà và chỉ được phép làm việc vào ban đêm.

Công việc cũng nguy hiểm. Phân tạo ra khí độc có thể giết chết những phu đổ thùng bên trong bể chứa. Tuy nhiên, họ lại được hưởng mức lương khá cao, đủ để bù đắp cho bất kỳ sự sỉ nhục hoặc nguy hiểm nào mà họ phải đối mặt. Công việc này đã biến mất sau khi các đường ống dẫn nước thải và nhà máy xử lý mọc lên vào thế kỷ 19. Mặc dù vậy, nghề này vẫn tồn tại ở một số nơi trên thế giới.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ