Lễ cưới công chúa triều Nguyễn
Trong sách “Đời sống cung đình triều Nguyễn” của tác giả Tôn Thất Bình cho biết Hoàng tử, Công chúa đến tuổi lập gia đình đều được chú trọng để kết hôn với người xứng đáng. Công chúa lấy chồng gọi là hạ giá, con rể vua gọi là phò mã.
Công chúa Thuyên Hoa - em gái vua Thành Thái. |
Khi Công chúa 16 tuổi, vua sai Bộ Lại, Bộ Binh lập danh sách những con cháu và chắt các công thần hàng nhất, nhị phẩm từ 16 tuổi trở lên, không tàn tật, thông minh, xinh đẹp.
Tiếp theo cử một hoàng thân làm chủ hôn, một đại thần làm chiếu liệu (người đứng ra lo liệu công việc lễ cưới). Các vị này căn cứ trên danh sách của Bộ Lại, Bộ Binh, chọn lấy 5 người hợp tuổi, vừa đôi với Công chúa. Theo tục lệ “gái hơn hai, trai hơn một” mới tốt.
Công chúa triều Nguyễn trước ngày cưới không được biết mặt chồng nhưng cũng sai thế nữ (hầu gái) dò hỏi về tính hạnh cùng vẻ người phò mã. Hôm đầu tiên phò mã vào hầu vua, công chúa nấp sau mành nhìn trộm.
Lễ cưới công chúa triều Nguyễn gồm 6 lễ, cứ 2 lễ cử hành một ngày. Như vậy là diễn ra trong ba ngày.
Ngày thứ 1
Ngày đầu tiên của lễ cưới diễn ra hai lễ là lễ nạp thái và lễ vấn danh.
Lễ Nạp thái có ý nghĩa là thu nạp những sính lễ mà gia đình phò mã mang đến để thưa chuyện với nhà vua, là lễ đầu tiên trong trình tự “lục lễ".
Gia đình phò mã đưa lễ vật vào cung. Lễ vật có một con trâu, 1 con lợn, 2 mâm trầu cau, 2 vò rươu, 2 cây gấm, 10 tấm lụa, 4 thỏi vàng, 1 đôi bông vàng, 1 cái trâm vàng, 2 chuỗi ngọc và 16 thỏi bạc.
Vị chủ hôn bày gấm, lụa, trầu cau lên bàn thờ; còn vàng bạc nữ trang chuyển giao cho Công chúa.
Lễ Vấn danh là lễ gia đình phò mã vào cung hỏi tên tuổi công chúa.
Lễ vật trong lễ này ở lễ cưới công chúa thời xưa gồm có 2 con trâu, 2 con lợn, 2 vò rượu.
Ngày thứ 2
Ngày thứ hai có những lễ vật gần giống như ngày đầu. Cụ thể diễn ra hai lễ như sau:
Lễ Nạp trưng là lễ nạp đồ sính lễ vào cung, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ vật có 2 con trâu 2 con bò, 2 con lợn, 1 mâm trầu cau, 2 vò rượu, 2 tấm lụa hoa, 2 tấm lụa trơn, 6 thỏi vàng, 20 thỏi bạc.
Lễ Nạp cát là lễ báo cho gia đình công chúa biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
Lễ vật có 2 con bò, 2 con trâu, 2 con lợn, 2 vò rượu.
Sau các lễ trên, vua sai đại thần đem lễ vật đi cáo các lăng miếu. Trước hôm làm lễ Thân nghinh 3 ngày, các bà mệnh phụ cùng nữ quan dẫn Công chúa vào lạy các miếu, đoạn vào cung lạy Hoàng hậu và Hoàng Thái hậu.
Trước 2 ngày, vua sai quan Khâm mạng tới thăm phủ đệ phò mã, rồi cho đem tới giường thất bảo, màn bát tiên. Giường thất bảo là giường quý, giường có gắn trân châu báu vật: Pha lê, xà cừ, châu, ngọc, vàng bạc, đồi mồi; màn bát tiên là màn có thêu tám ông tiên: Chung Ly Quyền, Lã Động Tân, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Trương Quả Lão, Hàm Tương Tử, Lý Thiết Quái.
Ngoài ra còn mang văn phòng Tứ bảo (bốn vật quý trong văn phòng: giấy, mực, bút và nghiên) đến bày.
Ngày thứ 3
Ngày thứ 3 là ngày quan trọng nhất trong đám cưới của công chúa, gồm lễ điện nhạn và lễ thân nghinh.
Lễ Điện nhạn: Lễ vật gồm một hộp chỉ ngũ sắc, 100 đồng tiền, 2 con ngỗng nhốt trong 2 cái lồng điều có dây đỏ buộc liền nhau (có thể thay thế bằng 2 con chim nhạn, ngỗng và nhạn trượng trưng cho sự chung thủy; hộp chỉ ngũ sắc và 100 đồng tiền tượng trưng cho sự giàu sang thịnh vượng, con đàn cháu đống).
Lễ Thân nghinh: Hai ông bà chiếu liêu đến phủ đệ phò mã, tự tay sắp đặt giường nằm và trải chiếu cho vợ chồng mới; vị chủ hôn lựa 12 ông hoàng thân, 2 phò mã, 2 viên quan văn, 2 viên quan võ cùng phu nhân những người kể trên tề chỉnh võng lọng đợi giờ dẫn dâu. Binh bộ phái 300 lính ứng trực trước cung.
Phò mã mặc lễ phục vào lạy vua xin đón Công chúa. Vua ban mấy lời giáo huấn. Phò mã ngồi đợi tại một gian phòng, bốn bên màn che sáo phủ.
Công chúa đội mũ ngũ phượng, mặc áo bào bằng đoạn bát ty màu đỏ, thêu hoa tròn và chim phượng, xiêm bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết thêu chim phượng; đi hài màu đỏ thêu phượng, theo nữ quan dẫn đến hầu vua cha và mẫu hậu để nghe những lời giáo huấn.
Kiệu hoa dừng ở trước cửa Tả đoạn chung quanh che rèm. Khi Công chúa bước ra, phò mã đã chực sẵn bên kiệu, tự tay vén màn mời Công chúa lên. Ra khỏi hoàng thành, phò mã mới được phép lên kiệu.
Phò mã cưỡi ngựa che 2 lọng, lính hầu bê tráp đi trước dẫn đường rồi đến 300 binh sĩ cầm cờ quạt, nghi trượng và phường nhạc.
Theo bên kiệu Công chúa có 6 nữ quan và các thể nữ mặc áo mã tiên; 2 người cầm lồng đèn thắp nến, 2 người cầm cảnh thiên tuế, 2 người ôm lồng ngỗng, 4 người bưng tráp trầu và hộp hương. Mười hai vị hoàng thân, 2 phò mã, 4 viên quan văn võ cùng các phu nhân đi võng lọng dẫn đầu.
Về đên phủ đám cưới rước vào thẳng cửa chính. Phò mã đến bên kiệu vén rèm đỡ Chông chúa xuống, dẫn vào phòng. Đoàn đưa Công chúa được mời vào phòng khách, ngồi theo thứ tự. Nhà trai bày cỗ bàn khoản đãi.
Phò mã cùng Công chúa vào lễ ở bàn thờ lễ Tơ hồng, rồi dự lễ Hợp cẩn. Hai người ăn chung mâm cỗ lễ Tơ hồng và uống rượu trong 2 cái chén làm bằng 2 nửa của cùng một quả bầu.
Hôm sau, Công chúa theo chồng đến ra mắt cha mẹ chồng. Công chúa đứng ở phía tây lạy 4 lạy. Cha mẹ đứng ở phía đông, đáp lễ lại 2 vái. Ngày thứ 3, hai vợ chồng đến từ đường lễ tổ tiên. Mỗi người lạy 4 lạy 2 vái.
Ngày thứ chín, hai vợ chồng vào chầu vua. Phò mã được vua ban cho một bộ triệu phục tam phẩm, 2 áo gấm, 2 bộ yên ngựa. Phò mã lạy tạ 5 lạy. Sau đó hai vợ chồng vào cung lạy chào Hoàng hậu và Hoàng Thái Hậu.
Hồi môn của Công chúa được cấp lớn nhỏ tùy theo đời vua. Phò mã Đô úy là chức của chồng Công chúa; chỉ ngồi không ăn lương, dự yến tiệc trong ngày lễ hoặc theo vua đi hầu khắp nơi.
Lễ cưới Công chúa thay đổi theo từng đời vua. Sau đời Tự Đức, hôn lễ đều cử hành tại Tôn nhơn phủ, là nhà thờ của họ Nguyễn Phước. Các lễ vật của Phò mã càng ngày càng giảm bớt và sự lựa chọn cũng dễ dãi hơn.