(GD&TĐ) - Đúng như ước nguyện của GS Sakurai Yumia, ngày 31/7/2013, gia đình, đồng nghiệp và học trò sẽ đưa một phần tro cốt của thầy sang Việt Nam. Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển (ĐHQGHN)i tổ chức lễ tưởng niệm và đón tiếp Giáo sư về với “quê hương thứ hai” bằng những tình cảm nồng ấm nhất tại Hội trường 19 Lê Thánh Tông (Hà Nội).
Ngày 29/11/2012, chúng tôi chia tay Thầy ở Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với lời hẹn sẽ đón Thầy ngày 19/12, để sau đó 1 ngày, thầy bắt đầu lên lớp môn học Lý thuyết nghiên cứu Khu vực cho lớp học viên khóa 8, một thời gian biểu “đều như vắt chanh” suốt 5 năm nay. Nhưng đến sáng 18/12, tất cả chúng tôi bàng hoàng, ngơ ngác khi nhận được tin dữ từ Tokyo: Thầy đột ngột ra đi ngày 17/12, khi chuẩn bị tới tham dự một buổi tọa đàm khoa học.
Nhà khoa học đáng kính
Giáo sư Sakurai Yumio |
Người mà chúng tôi đều gọi “Thầy” một cách trìu mến là Giáo sư Sakurai Yumio. Ông là nhà nghiên cứu hàng đầu về lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á, nhà Việt Nam học nổi tiếng ở Nhật Bản và trên thế giới.
Ông bắt đầu bén duyên với nghiên cứu về Việt Nam từ năm 1965, nhưng chủ yếu thông qua các tài liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Đến năm 1985, khi là Tùy viên văn hóa Đại sứ quán Nhật tại Hà Nội, ông mới có cơ hội tiếp xúc với người Việt và kể từ đó bắt đầu chuyên tâm nghiên cứu về Việt Nam. Năm 1987, ông nhận bằng Tiến sĩ Sử học tại Đại học Quốc gia Tokyo với đề tài Tìm hiểu sự thành lập làng xã Việt Nam. Sau 5 năm, năm 1992 ông tiếp tục bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Nông nghiệp với đề tài Lịch sử khai thác thủy lợi trên đồng bằng sông Hồng.
Kể từ đó Giáo sư Sakurai đã dành hầu hết thời gian, trí tuệ và tâm lực để xây dựng thành công các chương trình, dự án nghiên cứu về thủy lợi, nông nghiệp, hợp tác xã điển hình ở châu thổ sông Hồng của Việt Nam theo hướng khu vực học.
Ông đã có công rất lớn trong việc giúp đỡ chính phủ Việt Nam phát triển đời sống kinh tế, giáo dục, giao thông ở các vùng nông thôn, miền núi. Bằng những minh chứng khoa học và tình yêu với Việt Nam, ông đã thuyết phục được chính phủ Nhật Bản và các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ 100% kinh phí cho các dự án nghiên cứu của Việt Nam, cấp một số học bổng thường niên cho lưu học sinh và nguồn vay vốn ODA cho Chính phủ Việt Nam sau này.
Trong số các chương trình, dự án nghiên cứu mà giáo sư tâm huyết nhất phải kể đến chương trình nghiên cứu làng cổ Bách Cốc (Vụ Bản, Nam Định). Đây là công trình nghiên cứu của tập thể học giả Nhật Bản dưới sự chủ trì của GS. Sakurai được giới khoa học quốc tế và Việt Nam đánh giá là một trong những nghiên cứu điển hình về nghiên cứu khu vực theo định hướng liên ngành.
Chương trình kéo dài liên tục trong suốt thời gian 14 năm (từ năm 1994 đến 2008) với sự hợp tác của Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá và tiếp theo là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, với số lượng chuyên gia, nghiên cứu sinh, sinh viên Nhật Bản tham gia lên tới khoảng hơn 300 lượt người. Rất nhiều tài liệu, di vật của người Việt cổ như lăng mộ, văn bia, trống đồng, đồ đá, nhiều đặc trưng văn hóa về một làng Việt cổ tiêu biểu vùng đồng bằng sông Hồng đã được phát hiện qua chương trình nghiên cứu nổi tiếng này.
Cũng qua chương trình nghiên cứu Bách Cốc, Giáo sư đã đào tạo được nhiều thế hệ nhà Việt Nam học người Nhật Bản, những người hiện đang giữ vai trò chủ chốt trong nghiên cứu Khu vực học và Việt Nam học tại nhiều trường đại học và trung tâm nghiên cứu nổi tiếng ở Nhật Bản.
Giáo sư Sakurai Yumio thuyết trình trong một hội thảo khoa học |
Giáo sư Sakurai Yumio luôn tự hào nói rằng: Làng Bách Cốc đã trở thành “đứa con thứ hai” của mình. Chúng tôi cũng nhiều dịp được đi cùng Giáo sư xuống Bách Cốc và hết sức ngạc nhiên khi từ người già đến trẻ nhỏ đều quen và hết sức thân thiết với Giáo sư như người trong nhà, một thái độ không dễ thấy đối với vùng nông thôn Bắc Bộ.
Từ năm 2004, cùng các nhà nghiên cứu Nhật Bản, ông chủ trì dự án nghiên cứu lịch sử thị dân Hà Nội nhằm phân tích quá trình biến đổi cư dân qua các giai đoạn trong lịch sử của Hà Nội hiện đại và dự án nghiên cứu lao động địa phương và chính sách khu công nghiệp mới của Việt Nam.
Giáo sư Sakurai Yumio còn là một chuyên gia xây dựng các mối quan hệ hữu nghị gắn bó giữa hai chính phủ Nhật -Việt và giữa các trường đại học ở Việt Nam và Nhật Bản, trong đó đặc biệt phải kể đến là Đại học Quốc gia Hà Nội với Đại học Quốc gia Tokyo, Đại học Kyoto, Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Kyoto...
Năm 1999, ông là người đầu tiên đứng ra vận động thành lập Văn phòng liên lạc của Đại học Quốc gia Tokyo tại Đại học Quốc gia Hà Nội có thời hạn 10 năm. Văn phòng là sự kết nối giữa hai đại học và các cơ quan nghiên cứu nhằm giúp đỡ các nhà khoa học, lưu học sinh Nhật Bản muốn nghiên cứu về Việt Nam và sinh viên Việt Nam muốn nghiên cứu về Nhật Bản. Thành công của chương trình nghiên cứu tại Bách Cốc và một số chương trình khác chính là kết quả hoạt động của Văn phòng liên lạc này.
Giáo sư Sakurai Yumio trong một lần đưa sinh viên đi thực địa |
Người thầy thân thiết
Năm 2004, Giáo sư Sakurai Yumio được tặng danh hiệu Giáo sư danh dự của Đại học Quốc gia Hà Nội, một danh hiệu hết sức cao quý dành cho nhà khoa học quốc tế có những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học và đào tạo, đặc biệt cho Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo sư hết sức tự hào vì danh hiệu này, cứ mỗi lần sang Việt Nam, chúng tôi lại nhìn thấy chiếc huy hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội được cài trên ngực áo vest của ông.
Nhiều lứa học trò của ông nhớ lại, vào buổi lên lớp đầu tiên cho học viên Việt Nam, câu đầu tiên Giáo sư tự giới thiệu: "Tôi là Sakurai Yumio, giáo sư Đại học Tokyo và Tiến sĩ danh dự Đại học Quốc gia Hà Nội".
Được nghe đi nghe lại câu tự giới thiệu này, cứ mỗi lần tôi lại ứa nước mắt và tự hỏi tại sao có những người yêu Việt Nam đến thế! Tình yêu của thầy luôn đầy ắp trong những giờ giảng hết sức sinh động về lý thuyết và phương pháp hiện đại về Khu vực học, một môn học còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Tình yêu của Thầy cũng đầy ắp khi hướng dẫn sinh viên đi khảo sát hết địa phương này đến địa phương khác với trách nhiệm và ngọn lửa đam mê của một nhà khoa học thực thụ.
Có lẽ buổi đầu tiên, ai cũng ngạc nhiên về khả năng tiếng Việt của Thầy. Thực tế Thầy nói tiếng Việt không dễ nghe, nhưng thầy biết rất nhiều từ, đặc biệt là những từ chuyên môn. Thầy kể rằng chưa một lần Thầy cầm sách học tiếng Việt nhưng với tình yêu và niềm say mê nghiên cứu Việt Nam Thầy đã tự học bằng đọc sách. Dần dần tiếng Việt ngấm sâu vào người và trở thành ngôn ngữ giao tiếp duy nhất của Thầy với người Việt.
Chúng tôi "truyền tụng" nhau câu nói đùa của Thầy: Người Việt Nam có hai loại, người thông minh và người không thông minh. Tiêu chí về "người thông minh" là hiểu tiếng Việt của Sakurai. Còn không hiểu thì thuộc nhóm kia... Thế là sinh viên ai cũng "cố" làm ra vẻ "hiểu". Những chỉ tới buổi học thứ hai, tất cả mọi người đều hiểu thật, hiểu nội dung bài giảng, hiểu phương pháp nghiên cứu, và cái hiểu rõ nhất là tấm lòng của một một vị giáo sư nặng tình với Việt Nam.
Với sinh viên, ông là người thầy đáng kính, là người bạn thân thiết |
Chúng tôi không thể quên được "sự cố" năm 2009, khi Thầy đang trong thời gian dạy tại Viện thì đột nhiên nghe báo Thầy bị gẫy chân do một chiếc xe máy đâm phải khi qua đường. Tới bệnh viện, trước gương mặt hoảng hốt của chúng tôi, Thầy ra sức an ủi, cố làm chúng tôi an lòng, nhưng lại tỏ ra băn khoăn vô cùng khi giờ dạy cho sinh viên bị ảnh hưởng so với kế hoạch.
Thế rồi, mấy ngày sau, sinh viên được thông báo giờ học vẫn được tiếp tục, nhưng địa điểm chuyển từ trường vào Bệnh viện Việt Pháp. Hóa ra quá cảm động trước đề nghị thiết tha của Thầy, Viện trưởng bệnh viện đã thu xếp một phòng học đặc biệt tại Viện cho "Bệnh nhân Sakurai" lên lớp dạy sinh viên. Từng sự việc, từng ngày, từng năm....tình cảm của Giáo sư đối với chúng tôi cứ dày thêm, sâu thêm.
Có những lúc chúng tôi "quên" mất thầy là giáo sư nổi tiếng nước ngoài, mà cứ nghĩ thầy là một người cha, người ông của chính mình.
Thư từ con gái Giáo sư - em Shizuho Sakurai - cho biết: Sau khi Giáo sư mất, gia đình đã giở bản di chúc của thầy, trong đó thầy viết: “Nếu phải ra đi trên cõi đời này, tôi có một tâm nguyện là gia đình hãy hỏa thiêu và gửi một phần tro cốt của tôi sang Việt Nam. Các bạn Việt Nam hãy cho tôi xuôi trên dòng sông Hồng phù sa mát mẻ. Đây là “đất nước thứ hai của tôi” mà suốt cuộc đời tôi say mê khám phá bằng một tình yêu khoa học cháy bỏng!”. Lúc sinh thời Thầy thường nóit: "Những sự kiện lớn trong cuộc đời tôi đều gắn với các sự kiện lớn của Việt Nam. Tôi sinh năm 1945, năm Việt Nam giành độc lập. Tôi cưới vợ năm 1975, năm Việt Nam hoàn toàn giải phóng...". Đất nước và con người Việt Nam luôn chờ đón Giáo sư về với “quê hương thứ hai” với những tình cảm nồng ấm nhất! |
Phương Thanh