Giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ - Hành trình 30 năm

Giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ - Hành trình 30 năm

(GD&TĐ) - Ngay trong chuyến về nước đầu tiên ấy, giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ đã tìm thấy hơi ấm của tình đồng bào, sự gắn bó máu thịt với tổ quốc và hy vọng một ngày nào đó kiến thức tích luỹ được trong nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy của mình sẽ được phục vụ đất nước.

Sau một năm đất nước thống nhất, giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ từ Canada trở về nước. Trước khi trở lại quê hương xứ sở, giáo sư cũng như nhiều người Việt xa xứ nghĩ, sau nhiều thập niên bị chia cắt, hai miền sẽ có nhiều khác biệt trong tư tưởng chính trị, trong lối sống hai miền…và đương nhiên trong giáo dục, lĩnh vực được giáo sư quan tâm hàng đầu cũng có nhiều điểm khác nhau. Hiểu trên đại thể là như vậy, nhưng thực chất của những khác biệt ấy là gì, khác đến mức độ nào thì tốt nhất, cứ theo lời các cụ xưa dạy "trăm nghe không bằng một thấy". Vậy là từ Canada, nơi giáo sư Tuệ sống với gia đình, giảng dạy tại trường đại học Laval, ông thực hiện một chuyến trở về mà theo suy nghĩ của không ít việt kiều cho là mạo hiểm. Ngay trong chuyến về nước đầu tiên ấy, giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ đã tìm thấy hơi ấm của tình đồng bào, sự gắn bó máu thịt với tổ quốc và hy vọng một ngày nào đó kiến thức tích luỹ được trong nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy của mình sẽ được phục vụ đất nước.

GS Huỳnh Hữu Tuệ giảng bài tại Trường ĐH Công nghệ
GS Huỳnh Hữu Tuệ giảng bài tại Trường ĐH Công nghệ

Không ít việt kiều hồ nghi như thể Huỳnh Hữu Tuệ trước đây là “Việt Cộng nằm vùng” ở hải ngoại. Nhưng vào những năm 60 thế kỷ trước, khi còn là sinh viên, chàng thanh niên Huỳnh Hữu Tuệ cùng nhiều người Việt xa xứ đã xuống đường đòi Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh ở Việt Nam, đòi hoà bình cho dân tộc, đòi thống nhất cho đất nước thì hoàn toàn có thực. Ông đã có lần thổ lộ: “Gắn bó của tôi với Việt Nam là gắn bó của một công dân đối với đất nước. Tình cảm đối với Việt Nam của tôi không đơn thuần là câu chuyện tâm linh, tư tưởng mà là máu thịt của mình… Niềm hãnh diện dân tộc có một sức sống mãnh liệt trong lòng mỗi người dân Việt Nam”.

Năm 2000 giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ đưa vợ, bà Carole, người Canada về thăm quê hương chồng. GSVS Nguyễn Văn Hiệu lúc đó đang đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng, lại bận họp, nhưng ông đã ra tận sân bay để đón vợ chồng giáo sư Tuệ. Cho đến mãi về sau, nhắc lại kỷ niệm đó, giáo sư Tuệ vẫn còn xúc động. Giáo sư thổ lộ: “không có ông Hiệu, tôi không nghĩ sẽ nhận giảng dạy tại đại học Công nghệ.” Bà Carole, vợ giáo sư là một đảng viên đảng Cộng sản Canada. Bao nhiêu năm sống bên người chồng Việt, bà thấu hiểu tình cảm của người chồng xa quê hương xứ sở. Bà chia sẻ với người bạn đời trong từng cảm xúc, trong từng việc làm của giáo sư cho quê hương.

Huỳnh Hữu Tuệ sinh ra và lớn lên ở Thừa Thiên-Huế. Năm 1960, sau khi tốt nghiệp xuất sắc trung học, chàng thư sinh Huỳnh Hữu Tuệ nhận được học bổng du học tại Canada. Sau những năm miệt mài học tập, bền bỉ vươn tới đỉnh cao của khoa học, ông được giữ lại trường làm nghiên cứu sinh và giảng dạy tại chính trường đại học mà ông đã qua thời sinh viên: Laval Univercity - Canada. Năm 1968 ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về lĩnh vực thông tin. Và bốn năm sau ông lấy thêm một bằng tiến sĩ khoa học nữa về lĩnh vực xử lý thông tin. Đây là lĩnh vực được coi là mới mẻ thời đó. Bằng những công trình nghiêm túc, có giá trị khoa học và ứng dụng cao, năm 1981, khi vừa bước vào tuổi bốn mươi, ông được phong hàm giáo sư trước sự mến mộ, khâm phục của nhiều đồng nghiệp và bạn bè.

Tuy thành công tại Canada, nhưng trong sâu xa ông vẫn đau đáu một niềm riêng: phải làm gì cho đất nước?. Ý nghĩ ấy đã thôi thúc ông về lại quê hương xứ sở. Được hỏi về những chuyến trở về Việt Nam trước đây, ông nói.

- Tôi về Tổ quốc mình ngay sau những năm kết thúc chiến tranh. Vào thời điểm đó, tôi mong muốn mình là một cầu nối giữa trí thức bên ngoài và trí thức trong nước. Tôi nghĩ, thông qua chính việc làm của bản thân, mình có thể xoá đi những mặc cảm và cả nỗi lo sợ của không ít trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài .

Hành lý về Việt Nam của giáo sư là sách. Trong một chuyến ra đón thầy, thấy giáo sư muốn có một chiếc taxi to hơn, học trò của thầy tỏ ra ngạc nhiên. Khi mấy bao tải sách nặng dễ trên 100 kg được mang ra, họ mới hiểu. Đến nay giáo sư đã mang về tới ngàn cuốn sách quý, dùng cho nghiên cứu, giảng dạy.

Kể từ chuyến về đầu tiên ấy, sau này hàng năm giáo sư đã trở lại Việt Nam từ 1 đến 3 tháng. Giáo sư có thì giờ trao đổi với cán bộ giảng dạy và sinh viên tại đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện quân sự, Đại học Huế… và tham gia giảng dạy trong lĩnh vực Xử lý thông tin tại đại học mà GSVS Nguyễn Văn Hiệu làm hiệu trưởng. Không lương, không công tác phí. Đi lại ăn ở do ông tự túc, nhưng nhớ lại những ngày đó, giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ vẫn còn xúc động .

- Năm 1976, trong một hội nghị khoa học, tôi có dịp quen biết giáo sư Nguyễn Văn Hiệu. Ba năm sau, khi giáo sư Hiệu xúc tiến thành lập đại học Công nghệ, tôi được mời tham gia giảng dạy, và từng bước thực hiện ý tưởng thành lập bộ môn Xử lý thông tin. Tôi nhớ, đó là vào năm 1999. Những năm tiếp theo, hàng năm tôi đều có thời gian giảng dạy tại trường đại học của giáo sư Hiệu.

Đến năm 2005 bộ môn Xử lý thông tin chính thức được thành lập, giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ được mời đảm nhận chủ nhiệm bộ môn. Giáo sư Tuệ là việt kiều đầu tiên được giao đảm nhiệm cương vị này tại một trường đại học ở Việt Nam. Để toàn tâm với công việc, cũng trong năm này giáo sư đã về hẳn Việt Nam. Còn giờ đây giáo sư đã là một hiệu trưởng trường đại học Quốc tế Bắc Hà. Giáo sư tâm sự.

- Bản thân tôi đã nếm trải đủ điều. Cao sang, đau khổ… không thiếu nên mọi khó khăn vật chất không còn là mối quan tâm đặc biệt. Duy có điều kiện làm việc quả là thiếu thốn. Nó không cho mình phát huy tất cả khả năng. Nhưng bên cạnh tôi có hai cộng sự giàu tâm huyết và bản lĩnh, hai tiến sĩ trở về từ Mỹ và Úc. Ba thầy trò quyết tâm xây dựng thành một nhóm như mô hình mà tôi đã từng xây dựng ở đại học Laval. Những sinh viên theo học trong nhóm rất đam mê. Thông qua mô hình thực tiễn này tôi có thể chứng minh: Trong điều kiện không tương thích, nhưng tiềm lực dồi dào, thì vẫn có thể phát huy được.

Giáo sư nhận định: Niềm đam mê học, khả năng tiếp thu và trình độ của sinh viên Việt Nam là rất cao. Đào tạo ở cấp đại hoc, thay đổi được cách giảng dạy và học tập, thì tôi đảm bảo sinh viên Việt Nam không thua kém bất cứ sinh viên nước ngoài nào. Nhưng cái không ổn ở đây là phương pháp giảng dạy khiến cho sinh viên tiếp thu thụ động. Giảng dạy trong trường đại học cần đồng hành cùng sinh viên, kích thích tính sáng tạo, tìm ra hướng xử lý vấn đề cho riêng mình

Giáo sư cũng đặt ra vấn đề rất được suy ngẫm : tại sao nhà nước sẵn sàng bỏ ra 20.000 USD/năm để cấp học bổng cho sinh viên tu nghiệp nước ngoài mà không dùng số tiền đó đào tạo ngay trong nước mà vẫn đảm bảo tri thức, học vấn cao. Theo giáo sư, với số tiền đó có thể đào tạo đươc 4-5 tiến sĩ trong nước, có trình độ tương đương tiến sĩ nước ngoài .

Từ những suy nghĩ đầy trách nhiệm đối với công tác đào tạo, giáo sư Tuệ đề nghị : Đẩy mạnh cải cách giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước để giảm chi phí đào tạo ở nước ngoài. Còn một vấn để hệ trọng nữa, là để nhà nước khỏi bị chảy máu chất xám, mà theo giáo sư, đó là mất mát khá nghiêm trọng hiện nay.

Với cương vị mới là hiệu trưởng, khi trường đại học Quốc tế Bắc Hà chính thức được thành lập vào năm 2007, giáo sư bắt tay thực hiện mô hình giáo dục mà ông đã nung nấu, chiêm nghiệm trong nhiều năm : Xây dựng trường đại học tiên tiến. Đào tạo những sinh viên vừa có bản lĩnh kiến thức, vừa sáng tạo, độc lập trong suy nghĩ, nghiên cứu. Giáo sư đặc biệt nhấn mạnh tới khả năng phản biện, coi đây là một phẩm chất không thể thiếu của một trí thức. Giáo dục đại học phải giúp sinh viên đủ sức tích hợp và tổng hợp kiến thức để biến kiến thức đó thành của bản thân. Sản phẩm của một nền đại học theo đúng nghĩa của nó là phải đảm bảo ba điều: Thứ nhất là tư duy độc lập, thứ hai là tư duy phê phán, thứ ba là tư duy sáng tạo. Nếu không có những tư duy này làm sao sáng tạo được. Tôi muốn các bạn trẻ Việt Nam có thể trở thành những nhà khoa học ngang hàng quốc tế.

Như Nguyễn