Theo các nghệ nhân ở Phả Lễ thì hát Đúm ra đời vào thời nhà Trần nhưng phải đến thời nhà Mạc, sau khi chùa Kiến Linh được xây dựng ở tổng Phục Lễ thì loại hình nghệ thuật hát Đúm mới được hát trong lễ hội của một số làng rồi tiếp đó lan rộng ra cả vùng… Ngoài nghệ thuật hát, thì hát Đúm liên quan đến một chi tiết hết sức đặc biệt đó là tục che mặt của các cô gái trong vùng.
Các cụ lý giải rằng: Con gái tổng Phục Lễ xưa da trắng như tuyết, môi đỏ tựa son, má như đào bích nên để tránh cho da khỏi sạm màu nắng gió, từ xưa, chị em thường dùng những chiếc khăn mỏ quạ đội trên đầu và bịt mặt.
Mỗi năm các cô gái chỉ được cởi bỏ chiếc khăn che mặt một lần trong ngày hội hát Đúm đầu xuân… Khi hát, nếu phải lòng chàng trai, cô gái sẽ mở khăn che mặt, đó cũng là dấu hiệu đầu tiên của cặp đôi tâm đầu ý hợp, phải lòng, phải vía nhau… Bởi vì chị em chỉ bỏ khăn mỗi năm một lần nên hội xuân của người Phục Lễ xưa đã tạo ra sự tò mò, lôi cuốn cho trai tráng nhiều vùng…
Đi tìm báu vật dân gian
Theo chân người bạn là giáo viên ở Thủy Nguyên (Hải Phòng) chúng tôi về đất tổng Phục xưa để tìm hiểu về hát Đúm. Lễ hội hát Đúm có truyền thống từ xa xưa, được duy trì đến tận ngày nay với niềm đam mê không chỉ của các nghệ nhân có tuổi, mà cả ở lớp thanh, thiếu niên. Ngày nay, các xã thành lập một số câu lạc bộ hát Đúm để đi giao lưu tại các lễ hội, rồi tham gia hội thi hát Đúm toàn huyện Thủy Nguyên.
Trải qua bao thăng trầm suốt chiều dài lịch sử những lúc nào hát Đúm cũng có một vị trí trang trọng trong tâm thức của nhiều thế hệ nơi đây. Cũng như ông cha cư dân tổng Phục Lễ xưa, ngày nay nhân dân các xã Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Tam Hưng, Ngũ Lão luôn coi hát Đúm là báu vật… Trong một lần gặp gỡ gần đây, nghệ nhân Phạm Thị Đáng bộc bạch với chúng tôi rằng: Ngày xưa, trai gái tổng Phục Lễ thường tụ tập để hát hò đối đáp và “ghẹo nhau. Lời hát mộc mạc, đơn giản lắm nhưng cũng vô cùng sâu sắc về ý tứ.
Xưa như vậy, nay cũng vậy, hát Đúm chẳng cầu kỳ về hình thức, phục trang… Các cụ ông, cụ bà hay nam nữ thanh niên ngồi đối diện nhau, uống trà, ăn trầu là có thể hát ngay được những câu chào, đối đáp… Chính vì hình thức đơn giản, dân dã lời hát hóm hỉnh, đầy ý tứ nên hát Đúm dễ đi vào lòng người và khá thuận lợi trong việc bảo tồn và phát triển...
Dẫu nói là đơn giản, mộc mạc, nhưng đây là một hình thức diễn xướng dân gian gắn liền với lễ hội cho nên hát Đúm vẫn phải tuân thủ các quy tắc, các thể lệ, các bước tuần tự. TS. Đỗ Lan Phương một người từng dành nhiều thời gian nghiên cứu về hát Đúm cho rằng: “Đây là một hình thức diễn xướng dân gian của cộng đồng được diễn ra ở ngoài trời, trên đường làng, khi ra đình chùa chơi hội xuân…
Thể lệ hát được quy định khá chặt chẽ, tốp hát cùng giới (nam hoặc nữ) thường là những người cùng lứa tuổi, không hát với người trong gia đình, họ tộc (anh em ruột, chồng, anh em chồng, chị dâu, em dâu...). Thú vị nhất là được hát với người làng bên. Đã ra đến hội và đi hát, tất cả các ông chồng hay bà vợ không được ghen khi thấy vợ (hay chồng) mình cầm tay người khác để hát (vì có tục khi hát thường nắm cổ tay nhau).
Khi hát, bạn hát (đặc biệt là nam) không được chọn các từ nghĩa khó hiểu cho bạn hát của mình. Khi ứng đối không được, bạn hát có thể nhờ bạn hát trong tốp hát của mình ứng đối hộ, sau đó họ lại có thể tiếp tục cuộc hát, người hát không được dừng hát giữa bài (khổ thơ đối) bởi như vậy sẽ bị phạt: phải mời những người đi hát uống rượu, ăn quà…
Nghệ nhân Phạm Thị Đáng cho rằng, hát Đúm đơn giản nhưng cũng phải tuân theo những lề luật. Khi vào cuộc hát, bao giờ câu hát mừng cũng được hát đầu tiên. Tiếp đó từng người trong nhóm nam và nhóm nữ có thể hát những câu chào mừng để làm quen. Lời hát thường là thể song thất lục bát (hai câu 7, một câu 6-8) hoặc thể lục bát (6-8), có một số bạn hát giỏi ứng đối có thể “sáng tác” them. Do vậy, theo năm tháng một số bài bản được thêm vào.
Lời hát chỉ cần ứng đối đúng ý chính của bạn hát chứ không quy định ngắn dài… Tuy nhiên, người hát sau tuyệt đối không được hát giống với lời ca của người hát trước. Trong lễ hội, bài bản của hát đúm rất phong phú, nhiều nội dung diễn ra từ sáng đến tối, thậm chí từ ngày này sang ngày khác.
Mở đầu là hát mừng khi gặp nhau, tiếp theo là các hát giao kèo, rồi hát hỏi, hát đố, hát mời, hát họa, hát huê tình, hát cưới, hát lính,... và kết thúc là hát hát tiễn… Đến hội hát, chàng trai muốn hát với cô gái nào thì tiến tới ngỏ lời, nếu cô đồng ý sẽ nhẹ nhàng đưa tay cho chàng nắm.
Và khi đã tay trong tay thì lời ca tiếng hát quyện vào nhau, trao thương gửi nhớ cho nhau: “Thấy em vừa đẹp, vừa xinh /Anh thuận nhân tình, anh nắm cổ tay / Nắm rồi, anh hỏi cổ tay / Ai nặn nên trắng, ai day nên tròn?”; “Vì nàng anh phải đi đêm / Ngã năm ba cái, đất mềm không đau / Vì nàng anh phải đi thăm / Ngã mẻ đầu gối, ngã thâm bánh chè!” Rồi cô gái bộc lộ những lời yêu thương: “Yêu nhau quá đỗi quá chừng / Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay”… Lúc này, nếu thực sự cảm mến chàng trai qua lời ca giọng hát, cô gái sẽ bỏ khăn che mặt để chàng trai được ngắm dung nhan của mình…
Nỗ lực bảo tồn và phát huy hát Đúm
Muốn giữ gìn và phát triển hát Đúm không gì tốt hơn là phải truyền dạy cho các lớp kế cận. Trong cuộc trò chuyện xung quanh việc giữ gìn và bảo tồn, các nghệ nhân cao niên ở Phả Lễ, Phục Lễ đều nói với chúng tôi rằng: Ngoài kỹ thuật hát thì việc quan trọng nhất là các nghệ nhân phải có nghệ thuật, có tâm huyết, sự kiên trì để “truyền lửa” cho cháu con, cho thanh thiếu niên trong làng ngoài xã. Có yêu, có say thì các cháu mới tập luyện chăm chỉ, mới nhập tâm để rồi rèn được những kỹ năng điêu luyện…
Các nghệ nhân cũng nhìn nhận rất rõ những khó khăn trong việc gìn giữ và bảo tồn môn nghệ thuật này. Giờ đây không gian nghệ thuật hát Đúm đã ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi xu hướng và thị hiếu của người nghe, người xem trong khi đó, đây lại là loại hình nghệ thuật kén khán thính giả; Hơn nữa lớp nghệ nhân xưa giờ cũng đã cao tuổi, trong khi các cháu thanh thiếu niên thì mải làm ăn, buôn bán, học hành nên thời gian theo học cũng không thể liên tục được; Kinh phí để tổ chức các lớp học cũng rất hạn hẹp...
Khó khăn là vậy, nhưng một điều đáng mừng là cho đến nay, hát Đúm ở Thủy Nguyên đã từng bước vượt qua nhiều khó khăn để duy trì được sức sống bền bỉ và mạnh mẽ… Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thành công trong việc bảo tồn và phát huy loại hình nghệ thuật này nhưng trước hết phải nói đến nguyên nhân nội tại của hát Đúm.
Ngoài cách truyền dạy trực tiếp, các thế hệ sau có thể học hát từ cha mẹ, anh chị mình thông qua phương thức truyền khẩu trong sinh hoạt, trong lao động sản xuất hàng ngày. Đó là một trong những nguyên nhân mà hát Đúm khá dễ dàng được bảo tồn đến ngày nay.
Một ví dụ điển hình là trước Cách mạng tháng Tám, đa phần nông dân không biết đọc, biết viết nhưng vẫn thuộc rất nhiều lời hát Đúm và họ lại tiếp tục truyền lại cho thế hệ sau… Đó chính là nhờ phương pháp truyền khẩu từ đời này sang đời khác, từ thế hệ nọ qua thế hệ kia…
Thật mừng, trong những năm trở lại đây, hát Đúm đã được các cấp chính quyền, ban ngành ở thành phố Cảng nói chung và huyện Thủy Nguyên nói riêng quan tâm, tạo điều kiện để trong việc bảo tồn và phát triển.
Cụ thể, tính đến năm 2017, đã tổ chức thành công 5 lần “Chung kết Hội thi hát đúm huyện Thủy Nguyên” với sự tham gia của 5 đơn vị thuộc các Phục Lễ, Phả Lễ, Lập Lễ, Ngũ Lão và Tam Hưng. Tiết mục của các đơn vị đều thông qua 3 phần hát chào, hát đối đáp và hát tiễn với chất lượng nghệ thuật cao…
Việc tổ chức các hội thi hát Đúm kết hợp với lễ hội truyền thống của địa phương chính là một trong những phương pháp nhằm thực hiện mục tiêu khôi phục, giữ gìn và phát huy hát Đúm – một loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo đã tồn tại gần ngàn năm nay.