(GD&TĐ) - Bộ GD&ĐT vừa có thông báo kết quả hội thảo khoa học quốc gia về dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam được tổ chức tại thành phố Huế đầu tháng 1 vừa qua. Hội thảo đã đánh giá về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đồng thời nên ra những khuyến nghị về định hướng và giải pháp đổi mới dạy học Ngữ văn.
Các đại biểu tại hội thảo |
Theo hội thảo, chương trình, sách giáo khoa hiện hành có một bước tiến so với Chương trình, sách giáo khoa trước đó. Về cơ bản, mục tiêu môn học đáp ứng đúng qui định của Luật Giáo dục và của Chương trình giáo dục phổ thông, khá toàn diện và đầy đủ trên 3 bình diện: kiến thức, kĩ năng và thái độ; chương trình đã xác định được chuẩn kiến thức, kỹ năng làm cơ sở để biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên để dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập; cập nhật khoa học Ngôn ngữ và Văn học, đã thể hiện được nguyên tắc tích hợp trong dạy học.
Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh; các tác phẩm văn học được bố trí theo thể loại giúp học sinh có những hiểu biết về đặc trưng thể loại, từ đó hình thành kỹ năng phân tích những tác phẩm cùng thể loại.
Phương pháp dạy học Ngữ văn đã có những chuyển biến khá tích cực. Nhiều giáo viên Ngữ văn đã bước đầu áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới và công nghệ thông tin, truyền thông vào quá trình dạy học, bước đầu coi trọng việc chuyển hướng từ giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản.
Về kiểm tra đánh giá, đã bước đầu quan tâm ra đề theo hướng mở, gắn với các vấn đề cuộc sống. Nhiều giáo viên đã biết dựa vào chuẩn để xác định nội dung, xây dựng ma trận câu hỏi trắc nghiệm khách quan, câu hỏi tự luận khi xây dựng đề. Vấn đề đánh giá trong quá trình dạy học đã từng bước được quan tâm, những nghiên cứu về PISA bước đầu được ứng dụng vào thực tiễn đọc hiểu văn bản ở Việt Nam; bước đầu kết hợp giữa đánh giá của giáo viên và hoạt động tự đánh giá của học sinh.
Công tác bồi dưỡng giúp GV bổ sung kiến thức mới, đáp ứng yêu cầu dạy học Ngữ văn được tổ chức thường xuyên, định kì hằng năm đã giúp cho chất lượng giảng dạy bộ môn được cải thiện.
Nhìn chung, SGK môn Ngữ văn đã cơ bản phù hợp với chương trình, với trình độ của học sinh |
Tuy nhiên, chương trình dạy ngữ văn ở trường phổ thông vẫn còn những hạn chế cần khắc phục
Thứ nhất, chương trình chưa nhất quán theo một trục qua các cấp học, nội dung còn nhiều trùng lặp, tính tích hợp giữa các hợp phần càng lên các lớp trên càng mờ nhạt. Việc tách biệt các hợp phần Tiếng Việt và Làm văn trong CT là không hợp lý. CT và SGK vẫn nặng tính hàn lâm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh – nhất là phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo.
Nhiều bài học trong SGK, nhất là ở các lớp trên, nặng về lý thuyết, ít có tác dụng rèn luyện kỹ năng cho HS. Một số nội dung còn cao đối với khả năng tiếp thu của HS, nhất là HS nông thôn, miền núi và những HS có ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn. Thời lượng dành cho một số nội dung học tập chưa hợp lý. Hầu hết tác phẩm dạy trong SGK THCS, THPT tuy có vị trí trong lịch sử văn học nhưng đã ra đời quá lâu, nhiều tác phẩm không phù hợp với tâm lý của HS hiện nay, do đó không khơi gợi được hứng thú học tập của các em.
Việc đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá vẫn chưa thực sự chuyển biến, nhiều khi còn dừng ở hình thức, chưa có chiều sâu. Phương pháp dạy đọc hiểu chưa có hiệu quả, giáo viên chưa chú ý đến việc hình thành cho học sinh phương pháp đọc văn bản. Việc kiểm tra đánh giá vẫn chủ yếu là kiểm tra kiến thức nhớ, tái hiện, làm theo, chép lại,... học tác phẩm nào thi đúng tác phẩm đó, chưa đánh giá đúng được sự vận dụng kiến thức, chưa chú trọng việc đánh giá thường xuyên trên lớp học và sử dụng kết quả đánh giá để điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy và học.
Chất lượng đầu ra của sinh SV chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn mặc dù điều kiện học tập ngày càng tốt hơn. Nhiều SV sau khi ra trường lúng túng trong việc dạy học bởi khoảng cách giữa việc học tập - thực tập ở nhà trường và thực tế dạy học. Kiến thức Văn, kĩ năng nghề của SV ngày càng sa sút, chưa coi trọng học tập và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Công tác tuyển sinh còn nhiều vấn đề cần bàn, CT đào tạo chưa xác định rõ các tiêu chí cho các học phần cơ bản/lựa chọn/bắt buộc; các tổ bộ môn trong khoa Ngữ văn chưa có sự phối hợp tốt, việc cấp chứng chỉ sư phạm chưa được quản lí chặt chẽ, phương pháp đào tạo lạc hậu, chưa phát huy tính tích cực và năng lực tự học của sinh viên.
Đội ngũ GV thụ động trong việc đáp ứng những đòi hỏi của việc thay đổi của chương trình, sách giáo khoa do ý thức tự học, tự nghiên cứu, nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Công tác bồi dưỡng GV tuy được tổ chức thường xuyên, nhưng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu của giáo viên, hiệu quả thấp.
Lan Anh