Xung quanh Di sản văn hóa thế giới Thành nhà Hồ ẩn chứa nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Ngoài vấn đề thời gian, kỹ thuật xây thành, đôi rồng đá bị chặt đầu, hay chuyện ngôi mộ táng khổng lồ ở đàn tế Nam Giao, còn có một huyền tích lịch sử về nàng Bình Khương tuẫn tiết kêu oan cho chồng và ngôi đền cổ thờ phiến đá có hình thù rất kỳ lạ. Trên mặt phiến đá này in rõ những dấu vết của đầu và hai tay người.
Mối tình thủy chung son sắt
Ai đã từng có dịp đến thăm Thành nhà Hồ thuộc xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hóa), chắc chắn sẽ được người dân nơi đây kể cho nghe câu chuyện về mối tình thủy chung son sắt của nàng Bình Khương với chồng là chàng Cống Sinh.
Huyền tích kể rằng, cuối thế kỷ 14, việc dời đô vô cùng gấp gáp bởi giặc Minh đang lăm le vượt qua ải Bắc; những ngọn hỏa hiệu vùng biên ải Cao Bằng, Lạng Sơn mấy lần đã báo khói, báo cháy khiến vua quan nhà Trần lo sợ. Năm 1397, để nhanh chóng dời đô từ Thăng Long về đất An Tôn, Hồ Quý Ly đã gấp rút sai quân lính ngày đêm đào thành, đắp lũy.
Việc khai thác, vận chuyển những phiến đá nặng hàng chục tấn rất gian khổ. Bên cạnh đó,việc lắp ghép bức tường sừng sững cao đến 3-4m mà không có máy móc hiện đại hay vôi vữa đòi hỏi kỹ thuật điêu luyện. Trong số người tham gia việc đốc công có chàng Cống Sinh Trần Công Sỹ.
Viên quan này được Hồ Quý Ly giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát, đốc thúc thi công bức tường thành phía Đông. Quan quân ngày đêm làm việc không nghỉ để đảm bảo tiến độ, trong 3 tháng phải hoàn thành “kinh đô bất khả chiến bại”.
Tiến độ thi công gấp rút, nghiêm ngặt là thế, nhưng đoạn thành phía Đông do Trần Công Sỹ phụ trách cứ xây gần xong lại đổ sập, không ai rõ nguyên nhân.
Nghi ngờ Trần Công Sỹ có mưu làm phản, cố ý chậm trễ công việc xây thành, Hồ Quý Ly tức giận hạ lệnh cho quân lính đem vùi thân chàng vào ngay vị trí bức tường thành bị đổ để làm gương răn đe những kẻ dám mưu đồ chống thượng lệnh. Vợ chàng là nàng Bình Khương nghe tin chồng bị xử tội chết oan nên rất uất hận.
Đau khổ tột cùng, nàng lao tới bức tường đá, lấy hết sức để xô đổ những tảng đá xây thành, mong nhìn thấy xác người chồng vắn số. Nàng kiệt sức nhưng bức tường thành vẫn không hề rung chuyển, Bình Khương quyết định đập đầu vào đá để được chết theo chồng. Kỳ lạ thay, phiến đá nơi nàng tuẫn tiết lõm xuống một hố rất sâu như hình đầu người và hai vệt bàn tay cào xé.
Cảm thương trước người phụ nữ tiết nghĩa, người dân địa phương đã lập đền thờ nàng ngay sát bức tường phía cửa Đông thành An Tôn. Phiến đá in dấu đầu người và hai bàn tay được đưa vào đền thờ (phía Đông Thành nhà Hồ, thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh Long, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa).
Cả làng thờ phiến đá kỳ lạ in dấu đầu và đôi tay người
Theo thời gian, phiến đá vẫn tồn tại như thách thức mọi thay đổi của đất trời. Tuy nhiên, đến thời Vua Đồng Khánh (nhà Nguyễn), khi nghe đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương qua 500 trăm năm vẫn còn in rõ trên phiến đá tại tường thành, khách xa gần thấy hiếu kì nên đã đổ về đây rất đông.
Lúc này, viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ gây nhiều phiền nhiễu nên thuê thợ về đục cả phiến đá đem chôn.
Thật kì lạ, sau khi đục xong phiến đá ấy, những người thợ bỗng nhiên mắc bệnh lạ mà chết. Viên hào lý cũng lăn đùng ra chết không rõ nguyên nhân.
Bấy giờ, tri phủ Quảng Hóa là Đoàn Thước nghe tin và vô cùng cảm động trước mối tình thủy chung của nàng Bình Khương và chồng.
Ông đã sai lính tìm đào phiến đá đó lên rồi dựng bia, lập đền thờ ở chính nơi chàng Cống Sinh bị chôn xác, đồng thời sai thợ khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương nương, phu nhân tri thạch” (đại ý tảng đá này ghi dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống Sinh, triều nhà Trần).
Tri phủ cũng cho dựng thêm một phiến đá ở chân thành, nơi xưa kia Cống Sinh bị chôn lấp, trên đó khắc dòng chữ “Trần triều Cống Sinh - Bình Khương phu quân chi biếm” (nghĩa là nơi chôn lấp chồng bà Bình Khương, là Cống Sinh triều Trần).
Đến năm 1903, Tổng đốc Vương Duy Trinh đã làm sớ tâu lên nhà vua ban sắc phong cho nàng Bình Khương 4 chữ “Tiết liệu khả phong” và giao cho 3 làng Đông Môn, Xuân Giai, Tây Giai xây dựng một ngôi đền kiên cố.
Tại đền thờ nàng Bình Khương nằm ở phía Đông Thành nhà Hồ (làng Đông Môn, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc) - nơi nàng từng vật vã khóc kêu oan cho chồng, phiến đá ghi dấu nàng tuẫn tiết theo chồng được thờ ở nơi hậu điện của đền. Phiến đá dài khoảng 1 m, chỗ rộng nhất là 50 cm, chỗ hẹp là khoảng 20 cm.
Giữa phiến đá có một chỗ bị lõm sâu xuống in vừa dấu đầu người.
Phía hai bên có in rõ dấu hai bàn tay người. Phía sau ngôi đền cổ là mộ Trần Công Sỹ.
Bên phải đền có một cái ao nhỏ, dù nắng to hay hạn hán thế nào, ao cũng không bao giờ cạn nước. Trong đền còn có ba tấm bia đá cổ khắc chữ Hán ca ngợi công đức và tấm gương tiết liệt của nàng Bình Khương.
Được sự ủy thác của chính quyền địa phương, gia đình ông Vũ Đình Sến và bà Nguyễn Thị Vẹn ở làng Đông Môn chịu trách nhiệm trông coi ngôi đền. Bà Vẹn dẫn chúng tôi đi tham quan xung quanh ngôi đền. Ngôi đền này nằm trên khu đất rộng khoảng 1.000 m2, xung quanh có cây cối, phía sau tiếp giáp với tường Thành nhà Hồ.
Khi tới chỗ tiếp giáp này, bà Vẹn cho biết: “Phía trên kia tường thành là mộ của chàng Cống Sinh, xác ông bị chôn chính ở đoạn tường thành này. Còn phần nằm dưới đây là phần mộ của nàng Bình Khương. Cả hai vợ chồng bà đều được chôn dưới đoạn tường thành này”.
Tò mò về đoạn tường thành mà chàng Cống Sinh trước kia cứ mỗi khi cho xây dựng lên thì lại bị đổ xuống. Bà Vẹn chỉ tay vào một đoạn tường thành có những phiến đá lớn, dài xếp lên nhau bị nghiêng và bảo: “Đây chính là đoạn tường thành mà xưa kia chàng Cống Sinh cứ xây lên là bị sụt lún rồi đổ xuống, dẫn đến cái chết oan của chàng”.
Đoạn tường này, quan sát bằng mắt thường cũng dễ dàng thấy rõ, khác hẳn với những đoạn thành khác bởi nó bị cong bất thường, có đoạn lại bị sụt lún. Đoạn tường này cũng được xếp bằng những phiến đá to nhưng do bị lún nên không thẳng hàng như những chỗ khác.
Bà Vẹn cho biết thêm: “Trước kia, cứ đến ngày 1/9 (âm lịch), người dân trong làng và khắp các nơi trong vùng lại đổ về đây để tổ chức lễ giỗ cho nàng Bình Khương. Theo phong tục xưa để lại thì các hộ dân trong làng chúng tôi ai cũng phải góp lễ để cùng nhau dâng lễ tại đền.
Để tỏ lòng thành kính với vợ chồng nàng Bình Khương, chàng Cống Sinh, những ngày đó, dân làng tổ chức lễ hội rồi ăn uống linh đình trong nhiều ngày. Đến nay, phong tục này đã không còn tồn tại, nhưng cứ đến ngày lễ hằng năm, người dân khắp nơi lại tụ họp về đây để tham dự lễ rất đông”.
Ông Nguyễn Xuân Toán - Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản Thành nhà Hồ cho biết, hàng trăm năm nay, ngôi đền cổ đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa phương và du khách gần xa.
“Tin vào sự linh thiêng của ngôi đền nên cứ vào dịp mùng một, ngày rằm hay dịp lễ Tết đầu xuân, người dân địa phương đều đến đây dâng hương để cầu mong sức khỏe, bình an, may mắn cho gia đình...” - Ông Toán nói.