(GD&TĐ)-Nếu một lần nào đó được về nơi cái gì cũng thiếu, hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên và không khỏi băn khoăn: làm thế nào để sống? Nhưng những đồng bào vùng cao biên giới, hải đảo vẫn ngày ngày gồng mình để sống trong cái thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nước…
Bộ đội biên phòng và cán bộ Viện Thủy công đang chuyển vật tư lên làm bể nước ở Bản Mù Sang, huyện Phong Thổ (Lai Châu). Ảnh: gdtd.vn |
Thực trạng miền đất “khát”
Đến với khu tái định cư trên địa bàn hai huyện Sìn Hồ và Phong Thổ tỉnh Lai Châu những ngày cuối tháng 6, nắng rát mặt và mưa sạt đường. Mặc dù, đều đã có công trình cấp nước sinh hoạt từ 24 đầu mối cấp nhưng qua số liệu điều tra thực tế của Viện Thủy công, hiện có 4/24 (chiếm 17%) công trình đầu mối lấy nước bị cát sỏi bồi lấp, cửa lấy nước bị thu hẹp làm giảm lượng nước dẫn về bể; 15/24 (chiếm 63%) hệ thống kênh/đường ống cấp nước từ đầu mối về các bản bị hư hỏng nặng: kênh bị thủng, đường ống bị chặt phá... Thực tế là, đầu mối lấy nước nằm cách xa hộ dùng nước nên đường ống quá dài, đi qua nhiều địa hình phức tạp, chia cắt, làm cho việc quản lí bảo vệ hết sức khó khăn. Chất lượng nước nhiều điểm không đạt yêu cầu, đa số đều có hàm lượng Coliform vượt giới hạn cho phép, nhiều nơi nước đục. Bên cạnh đó, ý thức một số người dân kém, không có cơ chế rõ ràng và thỏa đáng cho người được giao nhiệm vụ trông coi hệ thống cấp nước sạch. Vậy nên vào mùa khô, 60% dân số các huyện, bản của Lai Châu đều thiếu nước. Giọt nước ở đây được ví giống như những hạt gạo để nuôi sống con người. Mấy năm gần đây khi mùa khô đến, nguồn nước cạn kiệt hết, may chỉ có vài nhà ở dưới thung lũng là có nước, nhưng cũng không đáng là bao.
Để có nước phục vụ sinh hoạt hàng ngày, người dân huyện Sìn Hồ, huyện Phong Thổ … (Lai Châu) phải đi một quãng đường dài 3 đến 7km, lấy từng can nước để dùng sinh hoạt. Nước thiếu nên người dân nơi đây phải chắt chiu từng giọt, thậm chí phải chia nước cho từng bữa để nấu ăn, chưa nói đến phục vụ các nhu cầu khác. Một giáo viên trường THCS Nậm Cha, cho biết: “Năm nào cũng vậy, cứ vào mùa khô đồng bào các dân tộc ở đây lại sống với bề bộn nỗi lo. Lo cơm, lo tiền còn phải lo nước. Không đủ nước sinh hoạt, cuộc sống của chúng tôi bế tắc đủ đường. Chúng tôi đang có sức khoẻ không đáng ngại lắm, chỉ thương cho các mế già, trẻ em và những cô giáo miền xuôi không đủ sức đi xa vượt rừng tìm nước”.
Tại trường Tiểu học Mù Sang (Lai Châu), chứng kiến cảnh học sinh, giáo viên tay xách can nước, nách mang cặp vượt quãng đường đèo dốc gần 10km đến trường mới cảm nhận được những khó khăn, vất vả do thiếu nước mang lại. Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Mù Sang (Lai Châu), tâm sự: Chúng tôi cũng rất xót xa khi nhìn các học sinh và giáo viên của trường phải thay nhau tranh thủ những giờ không lên lớp vào các khe suối trong núi để tìm từng can nước. Thiếu nước khổ lắm chị à”.
Dường như thiếu nước đã trở thành nỗi ám ảnh với những người dân nơi đây, cứ đến hẹn lại khát và người dân đến hẹn lại lo.
Cán bộ viện thủy công chụp trong quá trình khảo sát thực địa để làm bể đưa nước lên đồng bào huyện Sìn Hồ, Phong Thổ (Lai Châu). Ảnh: gdtd.vn |
Từ đơn giản… đến quy trình công nghệ
Để chống khát và ổn định an ninh chính trị vùng biên giới, chính quyền tỉnh Lai Châu đã tăng cường đầu tư cho chương trình nước sạch của Tỉnh. Hình thức công trình được áp dụng phổ biến: Một là xây dựng các đập dâng trên suối, dẫn đường ống về bể chứa qui mô hộ gia đình hoặc qui mô cụm gia đình; Hai là xây dựng các bể chứa tập trung gần mó nước để dân đến lấy nước.... Tuy vậy, vào mùa khô nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao, vùng biên giới luôn là vấn đề cấp bách của các Bộ, ban, ngành…
Tháng 10/ 2009, Bộ Khoa học công nghệ đã tổ chức hội nghị khoa học các tỉnh miền núi phía Bắc tại Lai Châu. Hội nghị kêu gọi các nhà khoa học đóng góp để xây dựng cho các tỉnh miền núi, đặc biệt là cho Lai Châu để “trả nợ” với đồng bào vùng cao, vùng biên giới đã vì miền xuôi bám đất, bám bản giữ vững biên cương của tổ quốc.
Hưởng ứng cuộc vận động này, Viện Thủy công, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng giải pháp cấp nước hữu hiệu phục vụ sinh hoạt và sản xuất vùng di dân tái định cư hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ". Với vai trò là người chủ nhiệm đề tài, Viện trưởng viện Thủy công, PGS.TS. Nguyễn Quốc Dũng, chia sẻ “Tôi làm công tác nghiên cứu khoa học được hơn 30 năm, cũng đã có nhiều sản phẩm nghiên cứu của tôi và đồng nghiệp được ứng dụng vào sản xuất, mang lại hiệu quả lớn. Tuy nhiên, khi được giao đề tài, tôi và anh em rất lo lắng. Vì các điểm tái định cư đều đã có công trình nước sạch nhưng tình hình vẫn “nóng”. Công trình thường nằm xa trung tâm 5 đến 7 km, vừa làm đã bị cát sỏi bồi lấp, các hộ dân dọc đường không có nước dùng, đem chặt phá đường ống. Ban đầu, chúng tôi chưa có ý tưởng gì mới cho đề tài này. Ý tưởng chỉ bắt đầu khi tôi cùng anh em đi khảo sát tình hình thực tế. Một buổi trưa dừng lại ăn cơm ở Dào San, lúc đó là mùa khô tháng 3 năm 2010, tôi ngạc nhiên thấy ông chủ quán vẫn có đường nước dẫn về nhà. Tôi hỏi “ông lấy nước ở đâu?”, ông chủ quán dắt tôi lên đồi chỉ vào một hốc nhỏ, trong đó có một cái xô hứng nước rịn ra trong đất và nối với ống nhựa dẫn về nhà, lượng nước chỉ đủ dùng tiết kiệm cho một hộ gia đình, nhưng thế cũng quý lắm rồi. Từ cách làm đơn giản của người dân kết hợp với các tiến bộ kỹ thuật mới, những người “Lính” Thuỷ công đã biến nó thành một quy trình công nghệ hoàn chỉnh như bây giờ.
Trong qua trình làm đề tài, anh em trong Viện thuỷ công đã lăn lộn, khảo sát thực địa, có những người thuộc từng “mó nước”, vũng nước trên địa bàn 2 huyện Phong Thổ và Sìn Hồ.
Ngày 10/4/2012, Viện Thủy công đã bàn giao hai bể nước tập trung cho bà con hai huyện Sìn Hồ, Phong Thổ. Bây giờ bà con ở Nậm Cha có nước sạch dùng thoải mái, không cong khổ như trước đây. Chủ tịch xã Nậm Cha nói: “Đối với chúng tôi, đây là món quà hết sức ý nghĩa, nó thúc đẩy tinh thần thầy cô giáo, các em trong năm học mới này. Tôi nhớ, khi nghe có Cán bộ lên đây giúp dân đưa nước về nhà, đồng bào mừng lắm. Vì ở đây bà con rất thiếu nước, muốn cho mình đỡ vất vả nhưng lại không biết làm cách nào. Nhớ lại trước đây vào mùa khô cả thôn đều thiếu nước. Trước tình hình đó, nhiều người dân, trong đó có cả các thày cô giáo phải đi 4-5 cây số, thậm chí là 7 cây để gánh nước. Có nhiều khi, chính quyền phải chở từng xe nước đến cho bà con. Từ khi có bể nước tập trung của Viện Thủy công cả bản như mở hội. Ngoài ra, với hệ thống cấp nước tự chảy, bà con chỉ việc nối ống dẫn nước để đưa nước về nhà mà không phải lo chi trả tiền”.
Đánh giá về đề tài, ông Bùi Từ Thiện, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Lai Châu, nói: "Tôi cho rằng, giải pháp cấp nước bằng đập ngầm có hiệu quả cao về kinh tế kĩ thuật, lại rất đơn giản dễ làm và đặc biệt là nó trực tiếp phục vụ cho đồng bào vùng cao, biên giới”. Theo đánh giá của ông Thiện, giải pháp này có 4 ưu điểm. Một là bền vững, vì không bị dòng chảy lũ phá hoại, không bị con người vô ý thức phá hoại, không bị lấp tắc như các loại công trình hiện có. Hai là chất lượng nước tốt, ngay trong mùa lũ cũng lấy được nước trong vắt. Ba là giảm 30 -50% mức đầu tư cho công trình đầu mối. Bốn là đơn giản, dễ làm, phù hợp với điều kiện vùng sâu vùng xa.
Chủ tịch xã Nậm Cha đề xuất: “Chúng tôi còn muốn làm 4 công trình như thế này cho các bản khác, xã sẵn sàng vận động bà con góp công đào đất, lấp đất, Nhà nước chỉ cần cấp vật tư chủ yếu và hướng dẫn bà con lắp đặt".
Đúng là với nhu cầu cần thiết đầu tư cho chương trình nước sạch cho các tỉnh vùng cao rất lớn như hiện nay, chỉ có sự tham gia của người dân, của cả xã hội cùng với việc áp dụng khoa học công nghệ như đề tài của Viện Thủy công vào cuộc sống thì mới có hy vọng "giải khát cho những miền đất khát"
Phương Uyên