(GD&TĐ) - Mùa xuân, mùa của những lễ hội
Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình…
Câu ca dao trên không biết có tự bao giờ, nhưng nó đã cung cấp cho chúng ta một thông tin khá lý thú về phong tục Tết của người Việt Nam mấy ngàn năm nay. Tết, đặc biệt là Tết Nguyên đán, xưa cũng như nay, không chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình, mà đã mở rộng thành một sinh hoạt mang tính cộng đồng cao của làng xóm, phố phường. Ngày đầu năm, sau lễ cúng Tổ tiên, chúc thọ ông bà, cha mẹ, mừng tuổi cháu con trong gia đình, gia tộc, người ta thường kéo nhau đi thăm hỏi, đi chúc tết bà con chòm xóm, láng giềng…Tục lệ ấy là một nét đẹp trong văn hoá tết, văn hoá ứng xử, văn hoá giao tiếp của dân tộc ta. Mồng một, mồng hai Tết chủ yếu là làm những công việc mang tính chất lễ nghi và thấm đượm sắc thái tình cảm ấy. Từ mùng ba Tết trở đi, những ngày nghỉ Tết còn lại được giành để lại du Xuân, chơi Xuân…
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà…
Nói “Tháng giêng là tháng ăn chơi” là nói cho vui, cho sang trọng vậy thôi, chứ thực ra, thuở xưa, người bình dân quanh năm “chân lấm tay bùn”, “đầu tắt mặt tối”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, ngày đầu năm, tháng đầu Xuân có “ăn chơi” chủ yếu cũng tập trung vào việc mở và tham gia các hội đình, hội đền, hội chùa..mà thôi.
“Xuân Thu nhị kỳ”, gần như làng quê nào cũng có lễ, có hội, hội lớn, hội to thu hút hàng chục vạn người từ tứ phương đổ về cũng có, mà hội bé, hội nhỏ bó hẹp trong phạm vi một làng, một xóm cũng không thiếu. Xem lịch biểu hội hè Việt Nam, chúng ta thấy, mùa Xuân chính là mùa tập trung nhiều lễ hội nhất.
Mồng bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu
Mồng chín đâu đâu cũng về hội Gióng.
-Nhớ ngày mồng bảy tháng ba / Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
-Ai về Phú Thọ cùng ta / Nhớ về giỗ Tổ tháng ba, mồng mười.
-Bơi Đăm, rước Giá, hội Thầy / Vui thì vui vậy, không tầy rã La.
Những câu tục ngữ, ca dao trên cho ta biết tên và thời gian diễn ra một số lễ hội ở vùng Bắc bộ. Riêng trên đất TT Huế, thì từ tháng 1-3 âm lịch đã có 33 lễ hội. Đây là một số lễ hội tiêu biểu được người trong huyện, ngoài tỉnh mến tiếng như: Hội đu tiên ở Phước Yên, Q.Điền từ 1-7/1; Hội Vật làng Sình, làng Thủ Lể ở Phú Vang, Quảng Điền ngày 10/1; Lễ Hội Cầu Ngư Hải Dương, Thuận An ở Hương Trà, Phú Vang ngày 12/1; Hội tế Tổ nghề rèn Hiền Lương ở Phong Điền ngày 18/2; Hội tế Tổ nghề điêu khắc Mỹ Xuyên ở Phong Điền ngày 5/1. Mùa Xuân và cả mùa Thu là mùa của thời tiết trong lành. Nắng ấm, trời trong. Cây cối đâm chồi nảy lộc, khai hoa. Công việc cấy cày, gặt hái cũng đã cơ bản làm xong. Nông dân, ngư dân, thợ thủ công …các làng quê có dăm bữa, nửa tháng không quá bận rộn tất bật với ruộng nương, đồng áng, với sông biển, đầm phá…đây chính là thời gian để họ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức lực, di dưỡng tinh thần sau những tháng ngày lao động khó nhọc. Tết Nguyên đán và hội Xuân được mở ra ở các làng quê, phố phường chính là đã đáp ứng đuợc nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh của quần chúng nhân dân.
Thời nào cũng vậy, người đi lễ đình, lễ chùa, trước hết là để bày tỏ lòng biết ơn Tổ tiên, biết ơn những người có công với dân, với nước, biết ơn các vị Thánh đã phù hộ, độ trì cho cháu con có cuộc sống an lành, ấm no, hạnh phúc. Nhiều ngi lễ trang trọng, thành kính được thực hiện nơi đình chùa,am miếu vừa để tạ ơn, vừa để khấn cầu trời đất, Thần, Phật giúp cho con người giải toả và thăng hoa tâm linh. Người đi lễ để cầu phúc, cầu tài, cầu điều tốt lành cho gia đình, cho bản thân, cho quê hương, đất nươc.
Đi lễ, đi hội không chỉ có vậy. Lễ hội còn là dịp để mọi người vui chơi, ca hát, được thi tài, đấu trí, được thử sức, được bày tỏ tâm tình với nhau. Đấu vật, đấu võ , chọi gà, chọi trâu, đua ghe, ném vòng, leo cột mỡ, bắn nỏ, đánh đu, đánh cờ người, cờ thẻ, thi nấu cơm, làm bánh, hát xoan, hát ghẹo, bài chòi…không một hoạt động thể thao, văn nghệ, không một trò chơi nào là không thú vị, không mang tính sáng tạo, tính quần chúng, không thu hút đông đảo người tham gia. Phần lớn các hoạt động này, thực ra đều có cội nguồn từ sinh hoạt, từ công việc lao động, sản xuất của người bình dân sau luỹ tre làng, nhưng khi được đưa vào lễ hội , thì nó được nghệ thuật hoá, sân khấu hoá. Cái dân dã, đời thường hoà vào cái thiêng liêng, thành kính trong một lễ hội đã có một sức thu hút rất lớn đối với cư dân các vùng quê, từ đồng bằng đến chốn rừng xanh, núi biết. Những lễ hội lớn như: Hội Đền Hùng, Hội Chùa Hương, Hội núi Bà Đen, Hội Bà Chúa Xứ. Hội Điện Hòn Chén…diễn ra trong nhiều ngày, với hàng chục ngàn người tham gia đã minh chứng sức thu hút rất diệu kỳ, rất lớn của lễ hội. Đến với lễ hội, người các làng quê, phố phường còn có dịp gặp gỡ, trò chuyện thân tình với nhau; Trai gái có cơ hội để tìm đến nhau mà kết mối duyên lành, nên vợ nên chồng. Tình non nước, nghĩa đồng bào được vun đắp, được thắt chặt thêm một phần cũng là nhờ vậy.
Lễ hội hôm qua và hôm nay, bao giờ cũng có sức mạnh riêng, giá trị riên của nó. Tết đến, Xuân về, được du Xuân, chơi Xuân cũng là một phần hạnh phúc của con người.
Bài, ảnh:Xuân Trường