Một đời thả hồn quê Việt vào tranh

Một đời thả hồn quê Việt vào tranh

Đào Mai Trang - bảo tàng thu nhỏ

Khi Nguyễn Phan Chánh và gia đình ông đang ở đây, ngôi nhà và khu vườn này được gọi là “Đào Mai Trang”. Đó là ngôi nhà ngói ba gian, gian giữa là bàn thờ có bức tượng bán thân của họa sĩ. Hai phòng bên trưng bày những hiện vật của Nguyễn Phan Chánh như một bảo tàng thu nhỏ.

Trong kí ức của nhà văn Nguyệt Tú (con gái đầu của họa sỹ), khi dựng ngôi nhà này Nguyễn Phan Chánh đã tiêu hết số tiền bán tranh ở Pháp. Nhiều lần bà Nguyệt Tú nghe mẹ khuyên cha để dành tiền tậu ít ruộng nuôi con nhưng ông dùng cả mấy nghìn đồng Đông Dương vào việc lập vườn “Đào Mai Trang ” thỏa mơ ước của mình. 

Trong vườn, ông trồng rất nhiều hoa đào và mai. Tết đến, hoa đào đỏ, hoa mai trắng nở rộ khắp vườn. Chính ở khu vườn nhà này đã tạo cảm hứng và chất liệu cho ông để vẽ những bức tranh “Cô gái bên cành đào”, “Cô gái dưới giàn hoa thiên lý” được trưng bày trong cuộc triển lãm 1938.

Tôi có dịp gặp nhà văn Nguyệt Tú khi bà đã gần 80 tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn viết sách. Tôi hỏi bà: Món tiền để tậu “Đào Mai Trang” là tiền bán bức tranh nào? Bà bảo: Đó là bốn bức tranh, trong đó nổi tiếng là bức “Chơi ô ăn quan”. Mẫu tranh là các em khoảng 13, 14 tuổi. Các em chít khăn mỏ quạ, quần áo nâu sồng, vốn là trang phục đặc sắc của nông thôn Việt Nam ngày ấy.

 Trong hồi kí của mình, danh họa Nguyễn Phan Chánh viết: “Một lần tôi thấy các em ngồi đánh ô ăn quan, tôi tò mò đứng xem và lấy phác thảo. Tôi vào nhờ bà mẹ nói với cô con gái nho nhỏ, xinh xinh ngồi cho tôi làm mẫu. Bố trí các em gái này ngồi chơi là vấn đề bố cục, ít nhất phải có 4 người. 

Nhưng bốn người này hai phe. Tôi đặt một cô bé khoảng chừng hơn mười tuổi ngồi một phía, còn ba cô ngồi ở phía bên kia. Bố trí lệch như thế mới phải, không để mỗi bên hai cô trải ra bố cục rời rạc. Làm thế nào để cho bốn cô tập trung vào ô quan khi chơi. Tôi cho cô nhỏ nhất đánh đầu tiên”.

Cho đến nay bức tranh lụa “Chơi ô ăn quan” vẫn nỗi tiếng nhất và trở thành một mẫu mực trong sáng tạo nghệ thuật. Trên bức tranh này ông có ghi bốn câu thơ chữ Hán vì ông vốn xuất thân từ Nho học. 

Và các tranh của ông thường có những câu thơ chữ Hán đề ở góc bức tranh nên khó có ai có thể sao chép được. Chính những câu thơ xuất thần này để nói về tâm trạng của ông mà tranh chưa tải hết được. Đó cũng là nét độc đáo, thật thi vị trong thơ – tranh của Nguyễn Phan Chánh. 

Thời niên thiếu, ông được gia đình cho theo học chữ Nho và nghệ thuật thư pháp. Hơn mười tuổi cậu bé Chánh đã nổi tiếng khắp vùng là người hay chữ và viết chữ Thảo đẹp. Năm mười bốn tuổi, Nguyễn Phan Chánh đã kiếm được đồng tiền đầu tiên phụ giúp gia đình nhờ việc viết chữ, vẽ tranh thờ và tranh cuộn bán tại các phiên chợ quê.

Hình ảnh về miền quê nghèo và cuộc sống nông thôn Việt Nam in dấu trong tâm trí của Nguyễn Phan Chánh để rồi sau này trở thành một “nỗi ám ảnh nghệ thuật” in dấu trong tất cả sáng tác của ông.

Duyên với tranh lụa

Hồn quê không chỉ thấm đẫm trong tranh lụa mà “chất quê” còn ngấm vào trong phong cách sống đời thường giản dị của Nguyễn Phan Chánh. Nhà văn Nguyệt Tú kể lại: Khi trúng tuyến vào Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ông đã ngoài 30 tuổi và đã có vợ con. 

Từ Hà Tĩnh lặn lội ra Hà Nội học, ông mang theo trọn vẹn chất quê mùa cùng những thói quen đặc biệt của mình khiến cho bạn bè, hầu hết là “con nhà quan” vừa buồn cười vừa tức mắt. Đặc biệt đi đâu Nguyễn Phan Chánh cũng “kè kè ” cái ô nhỏ. Đến thầy Hiệu trưởng Tardieu còn thấy khó chịu về anh chàng sinh viên ngồi trong lớp mà vẫn giữ khư khư cái ô bên cạnh. 

Không biết bao nhiều lần thầy rời bục giảng xuống “tịch thu” cái ô của ông đem treo ở chân giá bày mẫu vật. Trò Chánh lập tức lon ton chạy lên lấy lại ô mang về để cạnh mình như cũ. Và thầy trò cứ tái diễn hành động ấy cho đến khi thầy Hiệu trưởng tức điên giơ hai tay đầu hàng: “Thôi, tôi thua anh rồi”. Nhưng trong cuộc đời Nguyễn Phan Chánh biết ơn vị thầy giáo đó đã phát hiện và bồi dưỡng ông thành danh họa vẽ tranh lụa nổi tiếng. 

Vốn là một nhà Hán học rất giỏi chữ Nho và thư pháp, đôi tay chỉ quen cầm bút lông, Nguyễn Phan Chánh gặp nhiều khó khăn khi tiếp thu tinh hoa mỹ thuật của châu Âu. Ông vẽ sơn dầu rất xấu, không ra mảng khối. Nhưng thầy hiệu trưởng người Pháp vẫn kiên trì nhìn ra tài năng hội họa ẩn giấu đâu đó bên trong dáng vẻ quê mùa cùng đôi bàn tay không thể cầm bút vẽ sơn dầu.

Trong một dịp sang Vân Nam (Trung Quốc). Tardieu bắt gặp những bức tranh thời Đường, Tống phác hoạ phong cảnh. Ông bất chợt lóe lên ý nghĩ biết đâu Phan Chánh hợp chất liệu lụa! Ông liền mua một bức tranh “gốc” cùng một xấp lụa Vân Nam mang về đưa cho học trò và bảo: “Chánh, con có thể vẽ lụa xem”. 

Kết quả thật đáng kinh ngạc. Gặp được lụa Phan Chánh y như “cá gặp nước”, ông say sưa vẽ bằng mực nho và nước. Với lụa, ông được thỏa sức bay bổng sáng tạo. Và một trong sáng tạo “đắt” nhất của ông là phương pháp “rửa” luạ, giúp mặt tranh trở nên thanh sạch, mịn màng. 

Thế rồi trong lúc vui chuyện tôi hỏi nhà văn Nguyệt Tú: Trong đời, danh họa có “cái ô” nào không? Không đâu! Ông cụ gàn lắm, gàn theo kiểu đồ Nghệ, cương trực và khảng khái không ai bắt ép được và cũng không bao giờ chịu luồn cúi ai.

Bà còn nhớ một buổi trưa đang ngồi chơi ngoài sân thì thấy ông về từ xe kéo tay bước xuống. Hôm đó ông đi dạy về trễ hơn thường lệ. Nhìn sắc mặt ông có vẻ bực bội, tiếng ông nói to: “Bể niêu rồi (vỡ nồi rồi) mẹ con đưa nhau về Hà Tĩnh thôi”. 

Thì ra bức tranh lụa “Hai chị em” của ông bày ở triển lãm đã có người mua. Ông Tổng giám thị người Pháp rất thích bức tranh đó. Ông ta đòi Nguyễn Phan Chánh vẽ lại. Nguyễn Phan Chánh trả lời: “Tôi là họa sĩ chứ không phải là thợ chụp ảnh. Ngài có thể chọn bất cứ bức tranh nào trong số tranh tôi bán. Tôi không vẽ lại tranh ấy…”.

Thế nhưng Nguyễn Phan Chánh cũng lại là người rất vị tha qua câu chuyện nhà văn Nguyệt Tú kể: Buổi sáng sau sự kiện “bể niêu”, gia đình ông dọn hành lý chuẩn bị về Hà Tĩnh thì có một đôi vợ chồng người Pháp đến mua tranh. 

Khi bức tranh “Cô gái nhảy dây” mở ra, người vợ nhìn mãi cô thiếu nữ tươi tắn đang nhảy trong những vòng dây quay sinh động. Tà áo dài trắng của thiếu nữ bay lên trong nét vẽ. Sợi dây không rõ nét nhưng dường như đang điều khiển cả thân hình duyên dáng và vẻ đẹp tinh nghịch của cô gái. 

Người chồng trả tiền cho bức tranh của mình, không nói gì về bức “Cô gái nhảy dây”. Nhìn mắt người vợ tha thiết lặng ngắm bức tranh, họa sĩ không giấu được vẻ xúc động. Ông biết quyền mua tranh là của người chồng. 

Bất ngờ Nguyễn Phan Chánh nhẹ nhàng cuốn bức tranh lại và hỏi: Bà thích bức tranh này không? Đôi má bà khách hơi ửng đỏ lúng túng: Vâng tôi thích lắm! Họa sĩ liền trao cho bà bức tranh và nói: “Je vous en fais cadeaux (Tôi xin tặng bà bức tranh này)”. Người phụ nữ Pháp sững sờ nét mặt xúc động: Rất cảm ơn ngài! …

Hồn quê và hồn lụa

Năm 2019, Hội Mỹ thuật Hà Tĩnh đăng cai triển lãm Mỹ thuật Bắc miền Trung và tổ chức cho các đoàn về thăm nhà lưu niệm Nguyễn Phan Chánh. Dịp đó tôi có gặp họa sĩ Trần Khánh Chương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam, cùng quê Hà Tĩnh. Ông Chương cũng có vẽ lụa và rất tâm đắc với mảng vẽ luạ của Nguyễn Phan Chánh.

Ông bảo: Cụ Chánh lấy bút hiệu Hồng Nam (có nghĩa là phía Nam núi Hồng Lĩnh). Có thể nói giai đoạn 1925 - 1945 là thời kì cụ Chánh sáng tác say mê tranh lụa thể hiện cuộc sống bình dị của người nông dân ở nông thôn Việt Nam. 

Đặc biệt là những phụ nữ nông dân, trẻ em những con người chân chất, lam lũ nhưng luôn yêu cuộc sống. Các tranh lụa với lối thể hiện nhẹ nhàng, những mảng lớn và màu sắc hết sức đơn giản, trầm ấm như đen, nâu… và rất truyền cảm. Những sáng tác cuối đời của họa sĩ là những bức tranh lụa lấy từ đề tài văn học dân gian như Tiên Dung tắm, Tiên Dung và Chữ Đồng Tử, sau cùng là Kiều tắm. Và bức tranh ông vẽ ở gần tuổi 90 là “Thạch Sanh cứu công chúa”...

Qua câu chuyện của họa sĩ Trần Khánh Chương, tôi lại nhớ đên câu chuyện khá tế nhị của nhà văn Nguyệt Tú: Sinh thời, Nguyễn Phan Chánh vẫn hé lộ mọi bức tranh của ông, những người thiếu nữ lưu lại trong tranh đều vương vấn một mối tình của người họa sĩ, thi sĩ đa tài và đa tình. 

Nhưng trên tất cả những mối tình lãng mạn và thơ mộng ấy, ông có mối tình lớn với người vợ đầu tiên đã sinh cho ông 6 người con và dâng hiến cuộc đời mình cho gia đình. Vợ ông, người thiếu nữ thua ông 13 tuổi nhan sắc xinh đẹp với những đường nét chuẩn mực: Đôi mắt lá răm, lông mày lá liễu, gương mặt trái xoan, nước da trắng ngần, vóc dáng mảnh mai. 

Đó chính là cô hàng xén Tống Thị Trừng, cùng quê Hà Tĩnh. Sau này trong các tranh vẽ về phụ nữ ở các góc độ khác nhau, các hình mẫu khác nhau, thì bao giờ cũng có vài nét về đường nét người vợ thân thương. Màu quê, hồn quê và hồn lụa đậm dáng hình quê hương bắt đầu từ khu vườn nhà “Đào Mai Trang” thuở ấy…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ