(GD&TĐ) - Hàng năm cứ đến dịp Quốc khánh 2/9, ông Trần Hữu Hám quê ở phường Hương Chữ thị xã Hương Trà tỉnh Thừa Thiên - Huế lại mày mò đem ra những kỷ vật ở “bảo tàng tại gia” để làm vệ sinh cho sạch, đẹp thu hút khách tham quan. Trải qua gần 20 năm rong ruổi khắp các miền quê miền Trung để tìm kiếm những nông cụ đến nay, ông Hám có thể mỉm cười trước “bàn dân thiên hạ” vì đã tạo dựng cho mình một “bảo tàng tư nhân” khá bài bản với hàng trăm hiện vật, mô hình như: Máy tuốt lúa, đạp nước, ang đong lúa, hầm bí mật...
Lão nông hiệp nghĩa
Ông Hám bên cạnh bảo tàng nông cụ của mình tại ngã ba vào làng La Chữ |
Từ trung tâm xã Hương Chữ ra quốc lộ 1A để vào Huế duy chỉ có một con đường ở ngay ngã ba La Chữ, làm trước năm 1975. Sau ngày giải phóng, tuyến đường này xuống cấp trầm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và việc học tập của con em làng La Chữ. Trăn trở mãi ông Hám vẫn không nghĩ ra cách nào để người dân quê mình bớt khổ khi đi lại trên tuyến đường này.
Liên tục trong 10 năm từ năm 1980 đến 1990, mỗi tháng ông Hám bỏ ra 2 ngày (ngày 1 và 15 Âm lịch) dùng búa tạ đập nát tất cả các tảng đá to tướng trả lại mặt bằng cho lòng đường. Những ngày mưa lấy xẻng làm rãnh thoát nước. Sau nhiều tháng làm đường không biết mệt mỏi, hình dáng của một con đường bắt đầu hình thành. Đến lúc này mọi người mới nhận ra những việc ông Hám làm quả thật rất có ích nên cũng tham gia làm cùng ông. Người nào không trực tiếp tham gia được thì góp tiền mua nguyên vật liệu, mua đất đá, ai cũng muốn góp công sức của mình cho một con đường chung.
Trải qua gần 10 năm cùng chung sức đồng lòng, con đường vào thôn La Chữ cuối cùng cũng hiện hình. Một con đường cấp phối rất đẹp làm cho giao thông đi lại của người dân trong thôn thuận tiện hơn. Đó là con đường được làm từ kinh phí của nhiều người mà người đầu tiên khởi xướng là ông Trần Hữu Hám.
Con đường ông sửa thuở trước kia giờ đây đã nuôi dưỡng ý chí của hàng trăm con em xã Hương Chữ nối tiếp vào giảng đường đại học. Thấy việc của ông làm giúp ích cho dân, nhiều lần xã đề nghị tuyên dương và chi trả lương nhưng ông không chịu. Nhiều lúc thấy việc làm của cha mình “chẳng giống ai” mấy đưa con ra can ngăn nhưng ông nằng nặc không chịu. “Mình làm việc nghĩa là để đền ơn quê hương đã cưu mang gia đình trong những ngày miếng cơm còn xen lẫn với canh rau, củ sắn”, ông Hám nói.
Lập bảo tàng để con cháu nhớ mình
Địa chỉ nhà ông Hám ở ngã ba làng La Chữ, phường Hương Chữ, thị xã Hương Trà - Thu hút rất nhiều du khách đến tham quan |
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ công nhân ở chiến khu Dương Hòa, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Thứ. Hai ông bà có với nhau cả thảy 9 mặt con nên cuộc sống rất khó khăn. Năm có đứa con thứ 4, ông phải rời nhà đi làm đường suốt 10 năm ròng rã, cực không kể xiết. Đến bây giờ đã bước qua tuổi 85 khi đi trên con đường bằng phẳng và nhìn 9 người con mình đã “công thành, danh toại” ông mới yên lòng tìm thú vui riêng cho mình.
Ông kể: Một lần vào Huế, tình cờ nhìn thấy tấm hình của hai cô con gái là chị Trần Thị Lê và Trần Thị Năm vừa học bài vừa đạp nước vào ruộng treo ở một phòng tranh tại đường Phan Đăng Lưu đã thôi thúc ông tìm lại những kỷ vật một thời “thắt lưng, buộc bụng” để nuôi con thành tài. Đó cũng là những vật dụng đã gắn liền với đời sống của bà con nông dân từ hàng trăm năm trước. 18 năm ròng rã ông đi khắp miền quê xứ Huế có khi ra tới Quảng Trị để sưu tầm các mô hình về cái cày, con trâu, hay máy đạp nước, cối giã gạo.
Để giúp cha thỏa chí đam mê, mỗi tháng 9 người con “viện trợ” cho lão gần 1 triệu đồng, vì vậy để có tiền mua lại các hiện vật nông cụ lão phải “cân đong đo đếm” rất tỉ mỉ. Nhìn vào bộ sưu tập, có thể thấy một số vật dụng rất đặc biệt, không biết ông để xen lẫn trong bộ sưu tập nông cụ có ý nghĩa gì như: gồng chân trộm, hầm bí mật, chiếc xe tăng làm bằng vỏ đạn, tiền Đông Dương… Giải đáp thắc mắc của tôi về căn hầm bí mật được đặt trang trọng bên cửa sổ, cụ trầm ngâm: “Tui làm theo căn hầm cũ ở nhà tại làng La Chữ.
Đó là thứ quen thuộc trong chiến tranh với nhiều người, lớp trẻ như anh chị chắc là không biết. Căn hầm quen thuộc này từng cứu hàng nghìn gia đình tránh khỏi hòm tên, mũi đạn. Ngày trước, nhà tui đào một cái ngoài vườn, nắp phủ gộc tre, dây khoai, cỏ… Bên trên có hai lỗ thông hơi, dưới đặt ngọn đèn. Qua đêm, nếu đèn tắt, nghĩa là thiếu khí, phải làm lỗ thông hơi to hơn. Giờ, tui “phỏng lại” lớp trên bằng cỏ mượt, có nắp đậy, bên dưới là thùng đạn rỗng. “Ngó rứa mà hay, nhiều người, có cả khách Tây vô đây họ ưng coi cái ni.”
Ông Hám cũng chia sẻ thêm: Sau này ông muốn hiến tặng các hiện vật mà ông có được cho Bảo tàng Thừa Thiên - Huế, đó sẽ là nơi lưu giữ tốt nhất những nông cụ này cho muôn đời sau. Bà Nguyễn Thị Thứ, vợ cụ Hám kể: “Con cái trong nhà thấy ba vất vả nên hay biếu ông tiền ăn quà vặt. Được bao nhiêu ông đi mua đồ về chưng trong tủ. Tui hay càm ràm vì ông cứ lo việc không đâu, chẳng lo nghỉ ngơi dưỡng già. Lớn tuổi vậy nhưng ông chạy xe ra Phong Điền, về cửa Tư Hiền, đèo Phú Gia… vèo vèo. Có hôm tối mịt không thấy, cả nhà quáng quàng đi tìm. Ông về cười trừ, khoe mấy thứ mới mua được, thế là huề”. Thích thứ gì mang về thứ ấy nên bảo tàng nhỏ của ông khá phong phú.
Người làng vẫn bảo ông là lão nông chơi sang. Cách đây 12 năm, ông từng bỏ tiền túi 1 triệu đồng mua lại chiếc chuông nhỏ của một gia đình ở Hải Lăng (Quảng Trị) hoặc bộ đồ ăn trầu bằng đồng xưa có tổng trị giá tương đương. Một số người xem ngỏ ý mua lại vài món nhưng cụ Hám không bán. Ông cụ quả quyết: “Số tiền ấy tui đã từng có. Còn những món đồ trong gia đình này là niềm vui tuổi già, tui chỉ để lại cho con cháu nhớ về gia đình, dòng tộc mà thôi”.
Tham vọng của ông Trần Hữu Hám khi lập “bảo tàng” rất đơn giản là để con cháu nhớ về công sinh thành dưỡng dục, nhớ về nguồn cội cha ông. Tiếng lành đồn xa, ngôi nhà nhỏ của ông giờ đã trở thành nơi tham quan du lịch miễn phí cho nhiều du khách trong và ngoài nước. Ông nói: “Mình phải làm việc này không chỉ vì niềm đam mê của bản thân mà còn muốn lưu giữ cho thế hệ con cháu mai sau, đất nước dù có đổi thay tới đâu thì bọn trẻ vẫn biết về hình ảnh người nông dân Việt Nam một thời lam lũ nhưng rất hào hùng”. |
Minh Ngọc