“Lạc lối” ở “xứ sở chùa vàng” - Kỳ 1: Sống chậm

“Lạc lối” ở “xứ sở chùa vàng” - Kỳ 1: Sống chậm

Cuộc sống ở bất cứ đâu trên đất nước Myanmar cũng đều cho tôi cảm giác chậm rãi, chậm như chuyến xe lắc lư suốt 1 đêm mới đi hết chặng đường gần 200 cây số, chậm như cú rạp mình lấy đà lên dốc của người đạp xe đạp Trisaw gồng mình đưa khách đi thăm một thị trấn vương buồn, Bago - Mon state, nơi có tảng đá vàng chon von kỳ lạ và chậm như chính bước chân thong thả của người phu kiệu đưa du khách lên với tảng đá vàng. Cuộc sống mang trong nó bao điều bí ẩn mà lại giản dị vô cùng.

Khám phá Yangun

Chuyến bay Hà Nội đến Yangun chừng hơn hai tiếng, nhanh tới độ hương vị bữa cà phê sáng với những cảm xúc về một Hà Nội ồn ào, tấp nập vẫn còn vương trên môi khi tôi đến sân bay Yangun, thủ đô một thời của xứ sở chùa vàng - Myanmar.

Mingalarbar, lời chào dường như luôn chờ sẵn cùng nụ cười hiền hậu của những cô gái Myanmar chào đón chúng tôi đến Yangun. Lời chào thân thiện ấy cứ theo chúng tôi suốt từ khi hạ cánh xuống sân bay cho đến khi kết thúc hành trình khám phá “xứ sở chùa vàng”.

Hai ngày là khoảng thời gian quá ngắn để khám phá Yangun, thành phố lớn nhất và từng là thủ đô của Myanmar, trước khi thủ đô Naypyidaw được xây dựng. Yangun một thời được mệnh danh là London của Đông Nam Á.

Thả bước lang thang trên đường phố Yangun khiến ta có cảm giác như đi lạc vào một thành phố cổ xưa với những ngôi nhà có tuổi đời có lẽ đã hàng thế kỷ, với lối kiến trúc mang dáng dấp văn hóa “mẫu quốc” Anh.

Những khu nhà tập thể vuông vắn và phai bạc hay xanh xám cũ kỹ với chi chít “lồng chim” bám xung quanh như những ngôi nhà tập thể cũ tại Hà Nội.

Dưới chân cầu thang những ngôi nhà ấy, người dân tụ tập bên ly nước, nhai trầu bỏm bẻm, “buôn” chuyện thường ngày. Trên sân, đàn bồ câu gù gù nhặt thức ăn, thỉnh thoảng lại vụt bay lên, chao liệng một vòng rồi hạ xuống mỗi khi có người tung nắm hạt ngô.

Chùa vàng Swedagon Zedi Daw là niềm tự hào của Yangun và cả đất nước Myanmar, bởi đây là ngôi chùa với tháp vàng khổng lồ cao 99m, cao nhất thế giới. Bao quanh tháp là 1.000 ngôi chùa nhỏ, trong đó có 72 ngôi chùa bằng đá.

Lịch sử ngôi chùa ghi rằng: Nội thất của ngôi chùa được dát bởi 8.690 lá vàng cực mỏng. Phần tháp trung tâm được phủ bởi 9.300 lá vàng với tổng khối lượng lên tới 500kg. Toàn bộ ngôi chùa được đính 5.450 viên kim cương, 2.320 viên hồng ngọc, lam ngọc. Tổng số vàng được dát, chạm khắc trên những đồ tế lễ hiện nay ước tính 60 tấn, đã hao hụt theo thời gian khoảng 30 tấn so với con số ban đầu.

Chiều 14 âm lịch, trong chùa vàng Swedagon Zedi Daw, tiếng chuông chùa chậm như bước chân người lễ Phật khiến cho không gian tấp nập mà vẫn không ồn ào, không chen chúc bức bí, hương khói mà không ngột ngạt, từng người xếp hàng khấn lễ chẳng bon chen.

Tan khóa lễ, người dân Yangun còn có thói quen rải chiếu, mở đồ ăn sẵn mang theo từ nhà để cùng ăn tối ngay tại sân chùa, chờ đón trăng lên.

Thị trấn Kyaiktiyo, nơi có ngôi chùa độc đáo Kyaiktiyo (còn gọi là Golden Rock, chùa Đá Vàng) nằm trên đỉnh núi Kyaiktiyo (còn gọi là Kelasa) ở độ cao 1.100m, nhỏ nhắn chỉ với 2 dãy phố với những quán hàng hầu như chỉ phục vụ du khách, những người hành hương lễ Phật.

Chặng đường từ trạm dừng nghỉ ở trung tâm thị trấn Kyaiktiyo đến Golden Rock phải di chuyển bằng một loại xe phương tiện đặc biệt, xe tải.

Dù là dân thường, du khách hay các vị tăng lữ đức cao vọng trọng thì cũng vẫn phải lên đỉnh núi bằng cách ngồi thùng, ngồi nóc, thậm chí bám hai bên sườn xe tải cũ kỹ để lên núi. Rồi từ cao độ 700 mét cho đến đỉnh, người hành hương, du khách có thể đi bộ, cũng có thể lựa chọn một dịch vụ đặc biệt chỉ có ở đây: Kiệu người lên núi.

Tảng đá thiêng Golden Rock đã nằm chênh vênh trên một mỏm đá khác qua 2.000 năm lịch sử, sát mép núi. Thoạt nhìn có cảm giác đẩy tay là rơi nhưng lại vô cùng vững chãi.

Trên đỉnh có đặt một tháp thờ cao khoảng 7,3m. Golden Rock nổi tiếng bởi sự chênh vênh (phần tiếp xúc với núi chỉ vỏn vẹn 78cm vuông) và bề mặt được dát vàng theo thời gian bởi những người hành hương lễ Phật.

Chùa Kyaiktiyo và tảng đá thiêng Golden Rock được xem như một trong những kỳ quan của đất nước chùa vàng.

 

Những chùa, đền tháp ở Old Bagan

Cố đô Bagan là vùng đất cổ nổi tiếng linh thiêng và thanh bình với hàng nghìn ngôi chùa, đền, tháp. Mỗi ngôi đền đều có nét kiến trúc riêng vô cùng độc đáo. Hơn nữa, chùa chiền, đền tháp nơi đây có điểm chung là rất đồ sộ, cất chứa trong nó biết bao điều kỳ bí về văn hóa, tôn giáo và cả những điều huyễn hoặc.

Mỗi ngôi đền, tháp đều là một di sản đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Bởi vậy, Old Bagan được biết đến như một thành phố di sản cổ kính, nơi mà bất kỳ ai đặt chân đến Myanmar cũng mong muốn được ghé thăm.

Old Bagan từng là kinh đô hưng thịnh nhất của vương quốc Pagan giai đoạn thế kỷ 11 - 13 và là nơi đầu tiên thống nhất các lãnh chúa, hợp thành đất nước Myanmar. Old Bagan có hơn 14.000 ngôi đền bằng đất nung đã sụp đổ sau những biến cố lịch sử và trận động đất năm 1975.

Hiện nay thành phố cổ này còn giữ được hơn 2.000 ngôi đền, chùa gần như nguyên vẹn. Các ngôi đền, chùa nằm chen giữa bạt ngàn những cây nim và cây arabica, thốt nốt và các loài cây bóng mát tán rộng, có mùi thơm như hoa thiết mộc lan.

Tôi đến chùa Mahabodhi, một trong những ngôi chùa nổi bật và vẫn còn nguyên vẹn sau bao biến cố lịch sử. Chùa có tên và kiến trúc rất giống với ngôi đền Bồ Đề Đạo Tràng Bodh Gaya nguyên gốc ở Ấn Độ.

Bồ Đề Đạo Tràng ở Bihar Ấn Độ trước kia bị tàn phá bởi sự xâm lược của người Thổ, chính những người thợ, nghệ nhân Myanmar đã sang giúp người Ấn xây dựng lại. Sau khi trở về Myanmar, những nghệ nhân này đã xây dựng ngôi chùa Mahabodhi theo nguyên mẫu Bodh Gaya.

Bởi vậy mà chùa Mahabodhi ở Bagan có kiến trúc hoàn toàn khác biệt so với những ngôi chùa nơi đây, với một tầng đế và một tầng tháp. Tầng đế có gian rộng thờ Phật, các cánh cửa sơn son thếp vàng và tháp có 4 mặt với hàng trăm bức phù điêu khắc họa cuộc đời đức Phật. Cũng bởi sự khác biệt này mà chùa Mahabodhi luôn là điểm đến đầu tiên của du khách khi tới Old Bagan.

Tuy nhiên, không chỉ có chùa Mahabodhi, mà Old Bagan còn hấp dẫn du khách bởi hàng nghìn ngôi đền khổng lồ với những bức tường gạch nung dày tới hơn 2m.

Đền Dhammayangyi (có tên gọi khác là đền Vận rủi) được xây vào thế kỷ 12 dưới triều vua Narathu tàn ác - người đã cho giết hại toàn bộ những nghệ nhân xây đền nào không thể ghép khít những viên gạch nung tới mức mạch vữa chỉ nhét vừa một chiếc kim khâu.

Hay ngôi đền đá Ananda là ngôi đền được xây bằng đá duy nhất ở Old Bagan, với lối kiến trúc hình thập tự và những pho tượng Phật đứng khổng lồ. Tháp chính của đền cao 54m, có bốn mặt nhìn ra bốn hướng, mỗi mặt là mỗi gian thờ với những tượng Phật cao gần 10m.

Ở giữa đền có ngôi tượng Phật mà khi nhìn vào mặt tượng từ xa, cứ mỗi bước chân lại thấy nét mặt của tượng thay đổi trạng thái. Người dân Bagan tin rằng sự khác nhau giữa những nét mặt Phật sẽ khiến cho con người ý thức được việc làm của mình khi đến nơi này và bước ra thế giới.

Sẽ là thiếu sót nếu đến Bagan mà không ghé thăm Thatbyinyu Phaya và Shwesandaw hay còn gọi là “ngôi đền mặt trời lặn”, là những ngôi đền cao nhất ở Old Bagan. Đứng trên đỉnh tháp ở hai ngôi đền này có thể nhìn thấy mọi nơi ở vùng đất cố đô tuyệt diệu này.

Đặc biệt, Shwesandaw là một ngôi đền có 5 tầng tháp và một tháp Stupa hình chuông úp trên đỉnh. Ngôi đền này được xây dựng vào năm 1057 để lưu giữ 1 trong 8 sợi tóc của Phật Thích Ca được mang về từ Ấn Độ.

 

Di sản trên tường

Một trong những điều tạo nên sức hấp dẫn đối với du khách khi đến thăm những ngôi đền cổ ở kinh đô cũ một thời của Myanmar, thành phố Old Bagan, đó chính là những bức tranh Phật được vẽ trên tường của những ngôi đền.

Điều khiến những bức tranh này trở nên đặc biệt chính là ở chỗ nó đã được vẽ lên và tồn tại bền bỉ với thời gian, thiên nhiên khắc nghiệt và sự tàn phá của chiến tranh, con người trong suốt khoảng thời gian hơn 1.000 năm lịch sử. Dù cho chất liệu để vẽ lên những bức tranh chỉ hoàn toàn được làm từ nguồn gốc thực vật, nhựa cây hoặc tro than…

Phong cách vẽ trong tranh Bagan thể hiện sự ảnh hưởng mạnh mẽ của trường phái Tây Ấn giai đoạn đầu và của trường phái Verendra ở Bengal và Nepal giai đoạn trước.

Công lao lớn nhất của tranh cổ điển Myanmar nằm ở sự biến động của đường nét. Những tranh tường của Bagan, hiện nằm trong những ngôi đền ở Nandamanya, Phayathonezu, Thambula, và trong động Kyansitttha Umin vẫn còn rõ nét và sáng.

Trong các ngôi đền ở Bagan vào cuối thế kỷ 12 và 13 sau Công nguyên, nghệ thuật vẽ đã đạt đến đỉnh cao. Dưới thời trị vì của vua Mindon (1853 - 1878), các họa sĩ Myanmar đã nhận được những lời mời chính thức như một đặc ân của triều đình để vẽ những bức tranh cho Hoàng gia và các ngôi đền.

Nghệ thuật bích hoạ của Myanmar đã tô điểm cho vẻ đẹp các lăng tẩm, đền đài ở Bagan. Những ngôi đền có tranh bích hoạ được bảo tồn nguyên vẹn nhất là Patothamya, Nagayon, Abeyadana and Nanpaya.

Kỹ thuật tạo nên những bức bích hoạ, trước tiên phải làm phẳng bề mặt tường được vẽ với hỗn hợp vôi, rau và mỡ động vật, sau đó để khô trong vài ngày. Các hoạ sĩ bậc thầy vẽ phác thảo bằng phấn hoặc mực, sau đó hoạ sĩ sẽ tô màu với sự trợ giúp của người phụ việc.

Màu sắc được trộn bằng hỗn hợp làm từ rau, thịt động vật (chủ yếu là mỡ) và các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương. Các bức tranh không có phối cảnh xa gần, thay vào đó sự biến đổi được vẽ qua đường nét và gam màu mạnh được sử dụng nhằm tạo nên sự sống động và hấp dẫn.

Khoảng cách giữa các đường nét được tô bằng các mẫu hoa văn cây cỏ hoặc hình học hay chỉ là những ý tưởng sáng tạo của hoạ sĩ.

Thông thường bích hoạ mô phỏng một câu chuyện. Câu chuyện này được kể lại bằng nhiều cảnh, các cảnh lại được phân chia bằng những đường biên họa tiết cây cỏ, một vài khoảng trống được sử dụng để viết lời giải thích. Những chủ đề chủ yếu là các câu chuyện Jataka, rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày thời kỳ đó.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ