(GD&TĐ) - Sau gần 40 năm, khi gặp lại đồng đội năm xưa, người thợ máy trên chuyến tàu không số, ông Nguyễn Duy Tân (14 Nguyễn Khuyễn, Hà Nội), mới được biết sự thật về hai lần mình thoát chết.
Kí ước vẹn nguyên
Năm 1968, sau khi học xong trung cấp sửa chữa ô tô và vận hành máy nổ, trong thời gian chờ phân công công việc, ông được chuyển về phục vụ quân đội theo tiếng gọi cứu nước. Ông từng tham gia 6 chuyến chở vũ khí vào Bến Tre, Cà Mau, Quảng Ngãi cùng hàng chục chuyến trên tiểu đoàn 3 (tiểu đoàn phục vụ đường ngắn) chở xe tăng vào vĩ tuyến 17 và rà phá thủy lôi. Năm tháng sống cùng biển chỉ dừng lại khi đoàn tàu 408 do ông làm máy trưởng va phải thủy lôi trên đường trở về cột mốc số 0.
Ông Tân (thứ 2 từ trái sang) cùng đồng đội chụp ảnh lưu niệm tại Hạ Long. |
Sau khi làm lễ “truy điệu sống” tại Đồ Sơn, Hải Phòng, những đoàn tàu không số mang theo vũ khí, thuốc nổ, lương thực và các chiến sĩ “cảm tử” với tinh thần “Tàu là nhà biển cả là quê hương” lần lượt rời bến. Những ngày sống trên biển, thức ăn chỉ có lương khô, mì bột, rau xanh đủ trong 1 tuần, nước ngọt chia nhau từng ngụm,… Miếng cơm cũng “chín sáu ba không” vì cứ đang nấu sóng biển xô vào tàu lại tắt bếp, có khi còn nguyên hạt gạo lại phải đổ ra nấu cháo. Nhiều lúc đang cầm trên tay miếng lương khô, sóng biển dập vào tàu rơi xuống lại nhặt lên ăn, bưng bát cơm thấy có máy bay địch, mắt vừa nhìn lên trời miệng vừa nhai cơm. Bấy nhiêu khó khăn nhưng không làm lung lay tinh thần các chiến sĩ của đoàn tàu không số. Chỉ nghe ngóng thấy tin địch ở phía trước là trong lòng họ đã sẵn sàng hai chữ “quyết tử” để bảo vệ đoàn tàu, bảo vệ chính anh em đồng đội.
Khi là “người nhà” của đoàn tàu không số, ông Tân không sợ khó sợ khổ, càng không sợ địch nhưng lại sợ nhất là say sóng. Là thợ máy trên tàu, vị trí của ông luôn ở dưới mực nước biển. Đây là bộ phận được coi là “cột sống” của mỗi con tàu nhưng lại dễ bị say sóng nhất vì không chỉ có những con sóng dập dềnh, họ còn phải tiếp cận với mùi xăng, dầu. Có những lúc say quá úp vội mặt xuống giường rồi bao nhiêu thứ trong bụng cho ra hết. “Khó khăn, gian khổ thì nhiều lắm nhưng mỗi người chiến sĩ chúng tôi đều để trong lòng vì tiếng gọi cứu nước luôn đặt lên hàng đầu” – ông Tân tâm sự.
Giữa biển khơi, bốn xung quanh chỉ có sóng biển, mỗi khi tàu gặp sự cố, các chiến sĩ chỉ biết thả trôi con tàu đợi sửa chữa và thầm hi vọng nó sẽ không trôi vào tàu địch. “Trong trường hợp xấu nhất, trong lúc “tiến thoái lưỡng nan” đó mà bị địch phát hiện, nếu gần bờ thì sẽ chỉ cắm chốt lại đồng chí thuyền trưởng và thuyền phó, còn nếu xa bờ thì anh em chúng tôi quyết “cảm tử” cùng quân thù” – vẫn hừng hực khí thế ngày ra trận, ông Tân chia sẻ thêm.
Kí ức muộn
Kí ức về những năm tháng đó vẫn vẹn nguyên trong ông. Nhưng có những kí ức mà mãi gần 40 năm, sau khi gặp lại đồng đội năm xưa, người thợ máy trên chuyến tàu không số, ông Nguyễn Duy Tân mới được biết sự thật về hai lần mình đã thoát chết.
Tháng 9/1970, tàu Nhật Lệ 69 trọng tải 200 tấn do đồng chí Phan Văn Sả làm thuyền trưởng cùng 17 thủy thủ rời bến. Khi gần vào tới bến Cà Mau thì bị địch phát hiện. Nhiệm vụ chưa hoàn thành, tàu phải quay ra Bắc, neo tại Hạ Long để mọi người nghỉ ngơi và tu sửa tàu. Sau một tuần cùng anh em sẻ chia biết bao chuyện vui buồn tại bến Hạ Long, ông Tân được điều động sang tàu Nhật Lệ 43 làm máy trưởng và quay về Hải Phòng. Người bạn thân Nguyễn Như Hùng (Tây Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội) xuống tàu Nhật Lệ 69 thay vị trí thợ máy của ông Tân. Sau đó, tàu sang Trung Quốc lấy thêm hàng. Ngày 11/4/1971, Nhật Lệ 69 tiếp tục cuộc hành trình vào Cà Mau dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Sả.
Ông Tân thời trẻ |
Nhưng con tàu đã đi mãi không về. 18 đồng đội của ông đã hi sinh khi bị địch phát hiện. Ông đã ngả mũ dành một phút mặc niệm cho đồng đội mà không biết đó chính là chuyến tàu nếu mình không được điều động sang tàu khác, không có người bạn của mình xuống thay thì ông cũng đã mãi nằm lại nơi biển cả. Sự thật đó mãi tới năm 2007, khi ông được xem cuốn sổ vàng ghi lại danh sách những chiến sĩ tàu không số đã hi sinh, ông mới tường tận trước sự ngỡ ngàng của chính bản thân. Nước mắt ông đã rơi rất nhiều trước sự thật ấy.
Đó là lần thoát chết thứ nhất. Sau khi rời tàu Nhật Lệ 69, ông Tân sang làm máy trưởng trên những chuyến tàu có nhiệm vụ rà phá thủy lôi từ Cửa Việt ra tới phao số 0. Trong một chuyến đi từ Vĩnh Linh ra Hải Phòng, tàu ông vướng thủy lôi bị nổ, tàu gãy, bản thân ông bị thương, nằm bất động dưới boong tàu. Trên tàu phát tín hiệu pháo hoa cấp cứu, ông cùng đồng đội của mình được kéo ra khỏi khoang máy, đưa lên bờ và cấp cứu tại viện 15/8 của Quân chủng phòng không. Người cụt chân, cụt tay, có người bị thương ở đầu. Còn con tàu được trục vớt lên bờ và trở thành một trong những chứng tích về chiến công hào hùng của đoàn tàu không số.
Khi được đài truyền hình mời đi quay phim tại Hạ Long (cuối năm 2010), ông mới có dịp được gặp lại người thuyền trưởng Lê Hùng Chuyên và nghe kể tường tận về sự việc sau khi tàu ông gặp sức ép thủy lôi. Những chi tiết ấy, ông đã tưởng sẽ mãi chôn sâu cùng biển cả, nhưng hôm nay sau gần 40 năm ông đã được nghe đồng đội mình kể lại. Xúc động, ông ôm đồng đội mình mà không ngăn được những giọt nước mắt.
Ông Tân (ngoài cùng bên phải, hàng 1) cùng đồng đội thăm gia đình liệt sĩ Nguyễn Như Hùng. |
Nghĩa tình đồng đội
Ông tìm tới địa chỉ người bạn thân Nguyễn Như Hùng năm nào đã “hi sinh thay mình”. Thắp nén hương cho người đồng đội cũ, ông càng xót xa khi cuộc sống những người thân của đồng đội mình gặp nhiều khó khăn. Trong ngôi nhà cấp 4 bố mẹ để lại, hai người chị gái đã ngoài 70 tuổi, sống đơn thân nương tựa vào nhau. Ông coi gia đình liệt sĩ Hùng như chính nhà mình. Ông Tân dành tiền tiết kiệm, vận động đồng đội lập sổ tiết kiệm ủng hộ gia đình như món quà tri ân gửi tới người đã khuất. Ông luôn nuôi hi vọng một ngày nào đó trở lại chiến trường xưa để tìm lại những di vật của đồng đội.
Là thương binh 2/4, sức khỏe không ổn định nhưng ông luôn cảm thấy mình may mắn hơn rất nhiều đồng đội khác vì đã đợi được tới ngày non sông thu về một mối. Ông vẫn giữ liên lạc với những người đồng đội còn sống sót của đoàn tàu không số, tìm lại di vật nhằm đáp ứng nhu cầu tìm mộ liệt sĩ của những gia đình có người thân hi sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ non sông đất nước. Công việc khó khăn và tốn kém nhưng với ông đó là trách nhiệm của những người còn sống đối với những người đã hi sinh xương máu vì Tổ quốc.
Hiện nay, tuy đã ở tuổi 67 nhưng ông Tân vẫn tham gia nhiệt tình công tác ở tổ dân phố. Gia đình ông luôn là gia đình kiểu mẫu.
Nguyễn Huệ