Đề xuất chuyển vai trò quản lý Nhà nước hệ cao đẳng về Bộ GD&ĐT (bài 3)

GD&TĐ - Theo Tiến sĩ Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam: Nhìn theo chiều dài lịch sử của giáo dục đào tạo Việt Nam thường có sự lẫn lộn giữa các cấp độ đào tạo khác nhau.

Ảnh minh họa/INT
Ảnh minh họa/INT

Bài 3: TS Lê Viết Khuyến - Không đồng nhất cấp độ đào tạo sẽ làm “hỏng” cơ cấu nguồn nhân lực 

Không nhất thiết mỗi nhân lực gắn với một trình độ đào tạo

Nói về việc cần chuyển hệ đào tạo cao đẳng về Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, TS Lê Viết Khuyến cho rằng, ở Việt Nam đang lẫn lộn giữa các cấp độ đào tạo.

Chẳng hạn các trường có thể đào tạo ở cấp độ này, cấp độ khác, thí dụ: Sơ học, trung học, cao đẳng, đại học… Nhưng tên chương trình lại hay được gọi theo chức danh của đối tượng đào tạo (thợ cả, kỹ thuật viên, sơ cấp, trung cấp, cao cấp…).

Ví dụ, chúng ta đã từng có hệ trung cấp y có thể tuyển học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở học trong thời gian 3 năm để đạt cấp độ 3, cũng có thể tuyển học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông (cấp độ 3). Nhưng cũng yêu cầu thời lượng học kéo dài 3 năm. Điều này cho thấy, trình độ học vấn của người tốt nghiệp của hai đối tượng hoàn toàn khác nhau lẽ ra phải thuộc về các cấp độ khác nhau, nhưng trước đây đều gọi chung là trung cấp.

Trong ngành sư phạm, trước khi có Luật Giáo dục năm 2019 thì trình độ chuẩn của giáo viên mầm non, tiểu học là trung cấp sư phạm, trình độ chuẩn của giáo viên trung học cơ sở là cao đẳng sư phạm còn trình độ chuẩn của giáo viên trung học phổ thông là đại học sư phạm. Đến khi Luật Giáo dục năm 2019 có hiệu lực thì quy định trình độ chuẩn giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đều là cử nhân.

Hay trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trước đây đòi hỏi trình độ chuẩn của kỹ thuật viên là trình độ trung học nhưng khoảng 10 năm trở lại đây một số ngành nghề đã nâng chuẩn trình độ đào tạo kỹ thuật viên của mình lên cao đẳng.

Rõ ràng, việc nâng chuẩn trình độ đào tạo cho các chức danh nhân lực lao động cụ thể là cần thiết, phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học công nghệ và sự phát triển của xã hội và phải được khẳng định tại các văn bản Nhà nước.

TS Lê Viết Khuyến cũng cho rằng, không nhất thiết mỗi loại nhân lực cụ thể chỉ gắn với một trình độ đào tạo mà hoàn toàn có thể gắn với những trình độ đào tạo khác nhau. Do đó không được phép nhầm lẫn để đi tới đồng nhất trong cách gọi giữa trình độ đào tạo với chức danh của nhân lực được đào tạo.

“Điều tôi muốn nói là ở Việt Nam đã và đang có sự lẫn lộn trong công nhận giữa trình độ đào tạo với chức danh của người được đào tạo khi ra trường. Chính vì vậy dẫn tới cách xây dựng chương trình cũng như cách gọi tên bằng tốt nghiệp không thật chính xác, thậm chí còn phạm những sai phạm rất nghiêm trọng” – TS Lê Viết Khuyến nhấn mạnh.

TS Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
TS Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.

Đưa trình độ cao đẳng về trở lại bậc giáo dục đại học

Cũng theo TS Khuyến, để đào tạo ra một loại chức danh nhân lực cụ thể nào đó thì có thể trước đây đòi hỏi chỉ đào tạo trình độ trung học. Nhưng hiện nay do nhu cầu phát triển của xã hội, khoa học công nghệ buộc phải nâng lên trình độ cao đẳng.

Rõ ràng, việc nâng chuẩn trình độ đào tạo này là cần thiết, nhưng khi triển khai nâng cấp các trường ở Việt Nam, cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ sở đào tạo thường mắc phải hai sai lầm nghiêm trọng:

Thứ nhất, khi nâng chuẩn trình độ đào tạo lên mà vẫn giữ nguyên tên gọi cũ của cơ sở đào tạo thì sẽ gây thiệt hại cho người học.

Cụ thể, đáng lẽ, người học chương trình đó phải được công nhận đạt cấp độ cao đẳng nhưng nếu vẫn học trong các trường trung cấp thì mọi người vẫn mặc định người đó vẫn tốt nghiệp hệ trung cấp chứ không phải hệ cao đẳng.

Ngược lại, khi trình độ người lao động chỉ là trung học nghề nhưng nếu cơ quan quản lý lại ồ ạt nâng các trường trung cấp nghề lên thành cao đẳng. Trong khi chương trình vẫn không thay đổi theo chuẩn sẽ dẫn tới tình trạng như “tốt nghiệp trung học cơ sở, học 3 năm sẽ có bằng cao đẳng”.

Đây là hiện tượng chạy đua theo danh ảo để rồi tạo ra nguồn lực không tương xứng với trình độ đào tạo, không phù hợp với thông lệ chung của thế giới và hậu quả là nguồn nhân lực của ta sẽ không được thế giới công nhận.

Do đó cần phải làm rõ, khi nâng trình độ học vấn của chương trình đào tạo thì cần song song thực hiện nâng đẳng cấp của trường, cấp độ đào tạo lên để bằng tốt nghiệp phù hợp với trình độ đào tạo.

Còn nếu chỉ cố gắng chạy theo “mốt” lên cao đẳng để “câu kéo” người học nhưng không đảm bảo thời gian học và nội dung học thì đương nhiên sẽ đào tạo ra “nhân lực rởm”, gây tổn hại cho uy tín và chất lượng của nguồn nhân lực do chúng ta đào tạo ra.

Thứ hai, thời gian qua có sự nhầm lẫn nghiêm trọng giữa cao đẳng nghề với cao đẳng chuyên nghiệp về mục tiêu đào tạo.

Cao đẳng nghề đào tạo nguồn lao động trực tiếp sản xuất nên chương trình có thể có tỷ lệ thời gian học lý thuyết – thực hành khoảng 30:70. Nhưng cao đẳng chuyên nghiệp đào tạo ra các kỹ thuật viên thì đòi hỏi phải có tỷ lệ tương xứng giữa thời gian học lý thuyết và thực hành của người học chứ không phải giống như cao đẳng nghề.

TS Lê Viết Khuyến dẫn chứng, theo thông lệ chung (cả Việt Nam và thế giới) thì giáo dục nghề đào tạo nhân lực trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tức là đào tạo thợ và nhân viên, trong khi giáo dục chuyên nghiệp đào tạo chuyên gia như kỹ thuật viên, cán sự, giáo viên, kỹ sư, chuyên viên, bác sĩ, luật sư…

Việc nhầm lẫn mục tiêu đào tạo dẫn tới quy định hợp nhất giữa giáo dục nghề với giáo dục chuyên nghiệp để thành cái gọi là “giáo dục nghề nghiệp” như chỉ đạo vừa qua của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp dẫn tới thủ tiêu nguồn nhân lực “kỹ thuật viên”, làm méo mó cơ cấu nguồn nhân lực cần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đã kiến nghị Quốc hội sớm điều chỉnh các Luật về giáo dục (Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp), đưa trình độ cao đẳng về trở lại bậc giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ