(GD&TĐ) - Họ sống ẩn hiện nơi đầu nguồn sông Giăng. Ngày, đi kiếm con cá ở khe Choăng, suối Khặng. Đêm, họ rút vào rừng sâu tìm chỗ ngủ. Hàng trăm năm qua, cứ thấy bóng người lạ họ lại chạy tán loạn lên thượng ngàn Pù Mát (Con Cuông - Nghệ An).
Nguồn gốc huyền bí của người Đan Lai
Ông Lê Văn Cảnh mô tả tập tục ngủ ngồi của người Đan Lai |
Khoảng những năm 1980, Bộ đội biên phòng Nghệ An đã phát hiện một tộc người lạ sinh sống giữa vùng lõi vườn quốc gia Pù Mát (Con Cuông - Nghệ An). Các chiến sỹ khi đó đã quá sửng sốt khi nhóm cư dân này vẫn còn ăn uống, sinh hoạt kiểu hoang dã như buổi sơ khai của xã hội nguyên thủy. Nhưng điều kỳ bí là cứ thấy bóng người lạ họ lại lẩn vào rừng sâu.
Phải rất khó khăn, bộ đội biên phòng mới có thể tiếp cận được với nhóm người này. Từ đó, một câu chuyện ly kì tựa như truyền thuyết về sự xuất hiện của tộc người Đan Lai được hé mở, chính từ môi miệng những “già làng” của họ.
Ngày đó không rõ vào năm nào, đời nào, tại vùng Hòa Quân, Thanh La (Thanh Chương ngày nay) có một tên trùm làng rất gian ác. Một hôm, hắn ban lệnh xuống bắt dân làng phải nộp đủ 100 cây nứa bằng vàng và một con thuyền liền mái chèo. Dân làng họp nhau lại, nghĩ mãi không ra, tìm đỏ mắt không thấy những thứ trùm làng yêu cầu.
Quá sợ hãi vì thời hạn giao nộp đã đến, một đêm trời tối đen như mực, cả làng thắp đuốc, nổi lửa rồi cùng nhau chạy trốn. Những người đàn ông khỏe mạnh đi trước chặt cây mở đường, họ ngược sông Giăng chạy mãi cho tới tận rừng sâu, nơi không còn thấy bóng người mới dám dừng lại. Lo sợ quan binh truy đuổi, họ sống ẩn hiện, ăn trái rừng, uống nước suối, quên hết tập tục và giọng nói, dần dà trở thành tộc người Đan Lai như ngày nay…
Câu chuyện ly kì về sự xuất hiện của tộc người Đan Lai giữa vùng lõi Pù Mát đã được chứng thực phần nào bởi các công trình nghiên cứu của một số nhà sử học, dân tộc học. Theo đó, rất có thể họ là kết quả của một cuộc chuyển cư cấp bách từ vùng đồng bằng lên miền rừng núi. Tuy nhiên thời gian xuất hiện của người Đan Lai vẫn huyền bí.
Giả thuyết được nhiều người chấp nhận đã lấy cột mốc cách ngày nay khoảng 6 đời, tức là khoảng sau thế kỷ 17, 18. Đó là giai đoạn xã hội phong kiến rối ren, loạn lạc và lịch sử cũng đã ghi nhận thời gian này có nhiều nhóm cư dân ở khu vực đồng bằng Nghệ An phải bỏ làng để chạy giặc. Sau khi rời bỏ làng (được cho là vùng Thanh La, Thanh Chương ngày nay), người Đan Lai vẫn lo sợ quan binh truy sát nên phải sống lẩn trốn trong rừng sâu, tự xóa đi những vết tích cũ trên người, kể cả ngôn ngữ và tập tục vốn có. Ban đầu họ sống tập trung ở khu vực khe Khặng, sau đó lan dần ra một số vùng khác của huyện Con Cuông.
Ngày nay, tộc người Đan Lai được xếp vào nhóm dân tộc Thổ, nhưng lại có nhiều nét văn hóa giống người Thái, và ngôn ngữ Đan Lai là sự tổng hợp của cả 3 loại ngôn ngữ: Kinh, Lào, Thái. Người Đan Lai hiện sống trên địa bàn 5 xã của huyện Con Cuông gồm: Châu Khê, Môn Sơn, Lục Dạ, Lạng Khê và Yên Khê.
Trẻ em Đan Lai vẫn còn đói ăn, đói chữ |
Đói ăn, đói điện và đói chữ
Chúng tôi tìm vào bản Khe Bu (xã Châu Khê, Con Cuông), nơi có gần 100% người Đan Lai sinh sống. Gặp ông Lê Văn Cảnh, cán bộ mặt trận bản đúng lúc ông vừa luộc xong một con gà rừng. “May quá, bữa ni nhà ta có thịt gà ăn lại được gặp khách quý”. Ông Cảnh vừa nói vừa cầm thêm một chai rượu ra ngồi giữa phản, mắt sáng lên khi biết chúng tôi về tìm hiểu đời sống người Đan Lai.
“Các chú cứ uống rượu, ăn thịt gà đi đã, rồi thong thả Cảnh kể chuyện cho mà nghe” - ông cán bộ mặt trận bản nhấp li rượu, “khà” một tiếng rồi nói tiếp: “Chuyện của người Đan Lai thì kể đến sáng mai cũng không hết. Được rồi, ta sẽ kể, các chú ghi cho kịp nhé!”
Lời của ông Cảnh cứ rù rì như tiếng vọng từ buổi hồng hoang: “Tôi được nghe pú nhạ y mệ (ông bà cha mẹ) kể lại thôi. Trước đây người Đan Lai nghèo lắm. Khi chạy đến vùng rừng sâu nước độc này, một nhúm cơm cũng không có mà ăn. Dân làng phải đi đào củ mài ăn cho hết đói. Trẻ sinh ra phải được tắm suối 3 lần để rèn sức chịu đựng. Người chết phải bọc vỏ cây, lá rừng làm áo quan. Người Đan Lai không có nhà, đi quăng chài lưới bên bờ khe bắt con cá con tôm, hết ngày thì chặt 3 cái cọc chụm lại rồi lấy lá chuối che lên. Cho đến khi lá chuối héo vàng nhìn lên thấy được sao trên trời thì lại bỏ đó mà đi”.
Nỗi sợ bị quan binh, trùm làng tìm đến truy sát vẫn cứ ám ảnh. Người Đan Lai vì thế không dám ở yên một chỗ. Ngay cả lúc ăn họ cũng phải cảnh giác, họ ăn thật nhanh chóng, thậm chí ăn đứng để dễ bề trốn chạy. Ngay cả lúc ngủ họ cũng bị ám ảnh, họ không nằm ngủ như thường lệ mà có tục ngủ ngồi. Ông Cảnh buồn bã giải thích: “Người Đan Lai có thói quen ngủ ngồi bên bếp lửa” – nói rồi ông chống một chiếc đũa lên cằm mô tả “ Để cho khỏi ngã vào than lửa thì phải chống một cái gậy dưới cằm thế này. Ngủ ngồi để lỡ có quan binh truy đuổi đến thì có thể vùng lên chạy được ngay. Thế đó… Chúng tôi là tộc người trốn chạy!”.
Bản Khe Bu nằm cách QL7 chừng hơn 10km nhưng chúng tôi phải mất gần 2 tiếng đồng hồ mới có thể chạy xe máy vào tới nơi. “Bây giờ còn có đường mà đi xe, trước thì vùng này toàn rừng rậm, phải mất mấy ngày vượt rừng mới có thể lội ra được ngoài đường cái” – anh Hồ Hữu Nghệ, Đội trưởng công tác tuyên truyền dân vận, Đồn biên phòng 553 cho biết.
Anh Nghệ nói tiếp: “Người Đan Lai ngày trước sống biệt lập nên có nhiều hủ tục, trong đó đặc biệt nhất là tục kết hôn cận huyết thống. Bộ đội biên phòng chúng tôi đã phải rất kiên trì vận động, giúp đỡ trong một thời gian dài hủ tục này mới dần được xóa bỏ”.
Bản Khe Bu vẫn còn đói nghèo và thiếu thốn. Chưa có nguồn điện lưới, bà con phải tự lắp điện cù (1 pha) tại khe suối để có điện thắp sáng. Nhưng cũng chỉ chừng 40 hộ có điều kiện để lắp đặt, chiếm khoảng 30% số dân cư trong bản. Số khác vẫn phải sử dụng đèn dầu, thậm chí có nhà cũng không có đèn, mỗi tối chỉ có nguồn sáng duy nhất là bếp lửa. Bản làng sớm chìm vào bóng tối đen đặc của núi rừng. “Để làm 1km đường điện vào bản phải mất chừng 25 tỷ đồng. Có lẽ bà con ở đây vẫn còn phải “đói” điện dài dài”- ông Nguyễn Văn Bình, chủ tịch UBND xã Châu Khê thở dài.
Cả bản mới chỉ có 2 học sinh học THPT; 4 học sinh cấp THCS. “Số học sinh cấp tiểu học tương đối nhiều nhưng cứ lên cấp học trên là lần lượt bỏ hết do trường lớp quá xa. Hiện đồn 553 đang mở lớp xóa mù cho đồng bào Đan Lai (độ tuổi từ 15 - 35) và đã vận động được 20 học viên theo học. Chúng tôi đặt mục tiêu xóa mù cho bà con càng sớm càng tốt”- anh Hồ Hữu Nghệ cho biết.
Tháng 12 - 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 280/2006/QĐTTg phê duyệt Đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người thiểu số Đan Lai sinh sống tại vùng lõi vườn quốc gia Pù Mát”. Theo đó, các hộ dân người Đan Lai thuộc vùng lõi (gồm 2 bản: Cò Phạt và bản Bủng) sẽ được di dời ra nơi ở mới. Theo ông Vương Đình Lập, Trưởng ban định canh định cư (Ban dân tộc tỉnh Nghệ An): “Hiện tại đã di dời được 42 hộ ra 2 điểm tái định cư ở xã Thạch Ngàn (Con Cuông) và ổn định đời sống cho bà con. Tuy nhiên vẫn còn 182 hộ dân đang sống trong vùng lõi với những điều kiện sống vô cùng khó khăn và cực khổ nhưng vẫn chưa thể di dời”. |
Chí Dũng - Minh Thư