Bên cạnh đó, tình trạng trẻ mắc đtđ týp 2 cũng đã xuất hiện và ngày càng tăng mà nguyên nhân là do thói quen ăn uống và lối sống thiếu lành mạnh.
ĐTĐ là một trong những bệnh mãn tính có thể gặp ở mọi lứa tuổi từ trẻ em tới người già. Đây là bệnh rất thường gặp, lại khó khống chế, nhất là ở trẻ em, vì từ trước đến nay hầu hết mọi người đều nghĩ rằng chỉ có người lớn mới mắc bệnh nhưng trên thực tế thì có rất nhiều trẻ mắc căn bệnh nguy hiểm này.
Bệnh ĐTĐ ở trẻ em thuộc nhóm phụ thuộc insulin, xảy ra do tuyến tụy không có khả năng sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để hấp thu và sử dụng đường làm năng lượng nuôi cơ thể, là bệnh thường gặp ở trẻ em, chiếm 90 - 95% là trẻ dưới 16 tuổi. ĐTĐ ở trẻ em là bệnh giống như bệnh miễn dịch vì hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ tấn công vào mô hoặc những tổ chức tế bào của cơ thể trong đó có insulin ở tuyến tụy bị tấn công và phá hủy.
Hiện nay, bệnh ĐTĐ ở trẻ tuy không phổ biến nhưng có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng gia tăng về số lượng. Trong 30 năm qua số lượng các trường hợp mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ đã tăng gấp 3 lần. Và các nước châu Âu, châu Mỹ cũng đã phát hiện ĐTĐ týp 2 mà nguyên nhân có thể là do xu hướng gia tăng trẻ béo phì trong xã hội.
Trẻ bị ĐTĐ cần phải theo dõi đường huyết thường xuyên – ẢNH MINH HỌA
Các nguyên nhân sau
ĐTĐ týp 1 ở trẻ là bệnh có tính chất di truyền, do rối loạn tổng hợp insulin, rối loạn nơi sản xuất insulin và có tính chất bẩm sinh.
30 năm qua, số lượng các trường hợp mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ đã tăng gấp 3 Lần
ĐTĐ týp 2 vốn thường gặp ở người lớn do liên quan đến yếu tố ăn uống, béo phì, tăng huyết áp, ít vận động nên không tiêu hao năng lượng...
Hầu hết trẻ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 ở nước ta cũng có mối liên hệ với chứng thừa cân, béo phì bởi lối sống thiếu cân bằng và chứng ăn uống thiếu điều độ gây nên. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân nữa là do nhận thức của những bậc phụ huynh do cưng chiều nên đã có không ít trường hợp khi trẻ đến khám vì tình trạng thừa cân, béo phì và có nguy cơ cao mắc bệnh ĐTĐ týp 2 nhưng cha mẹ cho rằng trẻ gầy và lười ăn. Trong khi đó, việc điều trị cho trẻ ĐTĐ týp 2 không hề đơn giản vì người bệnh ĐTĐ týp 2 ngoài việc dùng thuốc còn phải thực hiện chế độ ăn kiêng cực kỳ nghiêm ngặt nhưng với trẻ thì không thể bắt trẻ ăn kiêng cho nên việc tạo lập ý thức về bệnh cho trẻ không dễ.
Bên cạnh đó, nếu điều trị bệnh ĐTĐ không đúng thì sẽ gây ra những biến chứng nhất định, trong đó có hạ đường huyết nhưng vì não trẻ em luôn cần được cung cấp một lượng đường nhất định cho nên khi hạ đường huyết sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến não, làm giảm sự phát triển của não dẫn đến giảm trí thông minh và giảm thị lực.
Cũng như người trưởng thành, lý do mắc bệnh ĐTĐ ở trẻ nhỏ hiện nay chưa được biết cặn kẽ nhưng nó có thể liên quan đến gen và môi trường sống.
ẢNH MINH HỌA
ĐTĐ ở trẻ em ngày càng gia tăng cùng với tình trạng thừa cân, béo phì, do đó cần được phát hiện sớm để điều trị kịp thời nhằm hạn chế biến chứng và giảm tỉ lệ tử vong. Nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy, ĐTĐ týp 1 tăng 21% ở trẻ em và ĐTĐ týp 2 tăng 30,5% ở trẻ trong độ tuổi từ 10 -19. Mắc ĐTĐ trước độ tuổi vị thành niên sẽ gây khó khăn trong việc điều trị, qua nghiên cứu của các chuyên gia về ĐTĐ ở trẻ em cho rằng có khoảng 80% trẻ mắc bệnh bị nhiễm ceton nhưng việc xác định tình trạng nhiễm ceton ở trẻ thường bị xem nhẹ vì phần lớn không nghĩ đến mà thường chỉ nghĩ đến các bệnh nhiễm trùng như: nhiễm trùng hô hấp, viêm dạ dày ruột, nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm miệng và số ít là viêm ruột thừa. Do đó, bệnh ĐTĐ sẽ gây hôn mê và có thể tử vong nếu không được phát hiện sớm và cấp cứu kịp thời.
Hầu hết trẻ mắc bệnh ĐTĐ týp 2 ở nước ta cũng có mối liên hệ với chứng thừa cân, béo phì bởi lối sống thiếu cân bằng và chứng ăn uống thiếu điều độ gây nên
Những biểu hiện
Trẻ em mắc bệnh ĐTĐ có thể xuất hiện 1 hoặc 2 trong 4 dấu hiệu điển hình và trong một số trường hợp không có biểu hiện gì, hơn nữa vì ĐTĐ ít gặp ở trẻ em nên rất dễ nhầm lẫn với một số bệnh thông thường khác khi có một số biểu hiện tương tự. Do đó, cần phải lưu ý đến những biểu hiện này để đưa trẻ đi khám và điều trị kịp thời.
Những biểu hiện ở trẻ em cũng tương tự như người lớn và chúng xuất hiện trong một vài tuần như:
- Khát nước: trẻ uống nhiều nước hơn bình thường và không có cảm giác dịu cơn khát.
- Mệt mỏi: trẻ thường xuyên cảm thấy mệt mỏi kéo dài.
- Giảm cân: trẻ sút cân nhanh không rõ nguyên nhân.
- Thường xuyên đi tiểu: trẻ lớn sử dụng nhà vệ sinh thường xuyên; đối với trẻ nhỏ thường xuyên đái dầm; ở trẻ sơ sinh có thể thấy bỉm nặng hơn bình thường.
- Đau bụng.
- Đau đầu.
- Có hành vi cư xử khác thường.
ĐTĐ ở trẻ em nếu không kiểm soát tốt đường huyết sẽ rất khó khăn trong điều trị bởi vì không tầm soát được biến chứng.
Phòng và điều trị
Để phòng bệnh ĐTĐ ở trẻ em, các bậc cha mẹ cần xây dựng chế độ ăn uống cho trẻ hợp lý như: hạn chế đồ ngọt, thực phẩm chứa nhiều chất béo như: đồ ăn nhanh, đồ chiên xào, thịt mỡ, phủ tạng động vật, lòng đỏ trứng gà…, tăng cường rau xanh, chất xơ, hoa quả, chất đạm, tăng cường vận động, tham gia các hoạt động vui chơi, luyện tập thể dục thể thao như chạy bộ, đá bóng, bóng chuyền, bóng rổ…
Đối với trẻ bị bệnh cần có một chế độ ăn uống, luyện tập nghiêm ngặt hơn, nếu không sẽ ảnh hưởng đáng kể đến tiến triển bệnh. Tuy nhiên, không nên quá kiêng ăn chỉ cần lựa chọn các thực phẩm thay thế dành cho người bệnh ĐTĐ và có chế độ dinh dưỡng hợp lý, đảm bảo nhu cầu phát triển của trẻ. Việc tăng cường vận động với trẻ bị bệnh đặc biệt có ý nghĩa trong việc giúp giảm lượng đường trong máu và giảm đề kháng insulin.
Trẻ bị ĐTĐ cần phải theo dõi đường huyết thường xuyên và duy trì đường huyết ổn định, định kỳ mỗi 2 tháng một lần kiểm tra chỉ số HbA1C, xét nghiệm ceton nước tiểu để phát hiện sớm biến chứng nhiễm toan ceton. Ngoài ra, cần lưu ý đến một số biểu hiện biến chứng cấp để có biện pháp xử lý kịp thời như tình trạng hạ đường huyết với các biểu hiện như chóng mặt, choáng, mệt mỏi… để bổ sung đường ngay cho trẻ bằng việc cho ngậm kẹo, ăn bánh ngọt, uống nước đường… và biến chứng cấp nhiễm toan ceton với các biểu hiện: nôn, buồn nôn, đau bụng, giảm thân nhiệt… để cấp cứu kịp thời.
ĐTĐ là bệnh mạn tính và cần điều trị trong thời gian dài. Nếu phòng và điều trị bệnh tốt, trẻ vẫn phát triển khỏe mạnh, ngăn ngừa biến chứng cấp xuất hiện và làm chậm lại quá trình xảy ra các biến chứng.