Đợt bùng phát dịch Ebola tồi tệ nhất được ghi nhận trong lịch sử đang tiếp tục hoành hành tại Tây Phi và gây nhiều lo ngại về sự lây lan tại Mỹ.
Cuộc chạy đua trong việc tìm kiếm một phương thức chữa trị hay chế tạo thành công một loại văcxin cho căn bệnh chết người chưa bao giờ lại cấp thiết như hiện nay.
Trước đợt dịch bắt đầu từ tháng 3 năm nay tại Guinea, tổng số ca nhiễm Ebola được ghi nhận trong quá khứ vào khoảng 2.400 người.
Số lượng nhỏ bệnh nhân gây khó khăn cho các nhà khoa học trong việc tìm hiểu đầy đủ và cặn kẽ cơ chế hoạt động của virus trong cơ thể người.
Các nhà khoa học đồng thời chưa thể tiếp cận với số bệnh nhân cần thiết để thử nghiệm thuốc, văcxin hay hoàn thiện các phương thức chữa trị.
Tiềm năng lợi nhuận thấp tại Tây Phi với số ít người nhiễm căn bệnh lạ và không phổ biến như Ebola lúc bấy giờ là lý do khiến các công ty dược phẩm lớn không chi trả cho những nghiên cứu dài hơi và đắt đỏ nhằm tìm ra một loại thuốc chữa hiệu quả.
Dù vậy, trên thế giới hiện vẫn có nhiều phương thức chữa Ebola đang trong giai đoạn nghiên cứu.
Về lý thuyết, các loại thuốc này cần phải trải qua một thời gian dài vượt qua những thử nghiệm trên động vật, thử nghiệm lâm sàng trên người để chứng tỏ hiệu quả và chính thức được công nhân.
Với bối cảnh dịch Ebola ngày một lan nhanh và khó kiểm soát, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cho phép sử dụng một vài loại thuốc trong số đó trên người bệnh vì lý do đạo đức.
Đến nay, một số bệnh nhân Ebola được chữa trị bằng thuốc ZMapp, TKM-Ebola, Brincidofovir.
Ngoài ra còn có những trường hợp áp dụng liệu pháp truyền máu. Sự hồi phục của họ đang là bằng chứng sống tiếp thêm nhiều hy vọng trong cuộc chiến chống Ebola khiến toàn thế giới lo ngại.
Bác sĩ Kent Brantly sống sót sau khi nhiễm bệnh tại Liberia. Brantly nhận máu từ một cậu bé nhiễm bệnh được anh chăm sóc trong thời gian làm việc tại quốc gia này. Ảnh: Huffingtonpost. |
Liệu pháp truyền máu từ bệnh nhân Ebola sống sót
Cơ chế: Với phương pháp này, huyết thanh từ người nhiễm Ebola sống sót được truyền cho các bệnh nhân Ebola khác. Lý thuyết cho rằng các kháng thể từ máu người hiến sẽ giúp bệnh nhân chống lại virus nguy hiểm này.
Thử nghiệm: Chưa có thử nghiệm lâm sàng nào chứng minh phương pháp truyền máu từ các bệnh nhân sống sót là cách chữa bệnh hiệu quả. Dù vậy, thế giới đã ghi nhận nhiều trường hợp hồi phục sau khi nhận liệu pháp điều trị này.
WHO cũng tin rằng đây là liệu pháp đầy hứa hẹn cho các trường hợp nhiễm trong tương lai. Liệu pháp truyền máu trước đây đã được chấp nhận trong chữa trị các bệnh như thận, bệnh thiếu máu, thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm.
Người nhận điều trị: Điều trị bằng truyền máu áp dụng lần đầu tiên tại các ổ dịch Ebola năm 1976 và tiếp tục được sử dụng trong những đợt bùng phát tiếp sau.
Với dịch hiện tại, bệnh nhân được nhiều người biết đến đã điều trị bằng phương pháp này là bác sĩ Kent Brantly. Khi được chẩn đoán nhiễm virus tại Liberia, Brantly nhận máu từ một cậu bé 14 tuổi sống sót do anh chăm sóc trước đây.
Sau khi trở về Mỹ, Brantly đã hiến máu cho bác sĩ Mỹ Richard Sacra, nam quay phim của đài NBC Ashoka Mukpo và nữ y tá Mỹ gốc Việt Nina Phạm.
Những người này đều có nhóm máu phù hợp với Brantly. Bác sĩ Brantly cũng dự định cung cấp máu cho Thomas Eric Duncan, bệnh nhân Ebola đầu tiên tại Mỹ, nhưng nhóm máu không phù hợp.
Nguồn cung: Tất cả bệnh nhân nhiễm Ebola sống sót và đã hồi phục hoàn toàn là nguồn cung huyết thanh tiềm năng cho các bệnh nhân khác, với điều kiện không mắc những bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS, viêm gan B hay C, giang mai.
Để đảm bảo an toàn, WHO khuyến cáo các bệnh nhân này chỉ nên hiến máu sau khi kết thúc thời gian 28 ngày kể từ lúc xuất viện.
Thuốc ZMapp được điều chế từ cây thuốc lá biến đổi gen. Hiện tại không còn liều thuốc ZMapp nào trên thế giới. Ảnh: Huffingtonpost. |
Thuốc ZMapp
Cơ chế:ZMapp là loại thuốc kết hợp giữa những kháng thể đơn dòng bám vào virus Ebola và ngăn cản virus này tái tạo.
Thử nghiệm: Các nhà khoa học đã thực hiện thử nghiệm trên 21 cá thể khỉ nhiễm Ebola và điều trị cho 18 con bằng thuốc ZMapp. Kết quả cho thấy 18 con khỉ được điều trị bằng ZMapp sống sót trong khi 3 con còn lại tử vong. ZMapp đang được cộng đồng tin tưởng là loại thuốc mang nhiều hiệu quả nhất chống lại Ebola.
Người nhận điều trị: ZMapp tới nay đã được dùng cho hai nhân viên y tế Mỹ là bác sĩ Brantly và y tá Nancy Writebol, các bác sĩ Liberia Abraham Borbor và Zukunis Ireland, bác sĩ Nigeria Ạo Comos Izchukwu, y tá người Anh Will Pooley và mục sư người Tây Ban Nha Rev. Miguel Pajares. Trong số này, bác sĩ Borbor và mục sư Tây Ban Nha đã tử vong sau đó.
Nguồn cung: Các kháng thể trong thuốc ZMapp được điều chế từ cây thuốc lá biến đổi gen và nguồn cung ZMapp đã cạn kiệt. Việc sản xuất các liều thuốc tiếp theo đang được tiến hành nhưng đòi hỏi nhiều thời gian cùng khoản chi phí đắt đỏ.
TKM-Ebola
Thử nghiệm: Thuốc được thử nghiệm trên khỉ đã phơi nhiễm virus Ebola. Kết quả cho thấy, một cá thể chỉ dùng 4 liều thuốc trong tuần tử vong trong khi 7 cá thể còn lại nhận được nhiều liều hơn sống sót. Cơ chế: TKM-Ebola có chứa những phân tử nhỏ gọi là RNAs nhắm vào một protein trong virus Ebola.
Người được điều trị: Bác sĩ Mỹ Richard Sacra là người được điều trị bằng thuốc TKM-Ebola và đã hồi phục. Ông cũng được truyền máu từ bác sĩ Brantly nên vẫn chưa rõ TKM-Ebola đóng góp bao nhiêu phần trăm vào sự hồi phục này. Nhà sản xuất cho biết sẽ đưa thuốc tới Tây Phi để thực hiện thử nghiệm lâm sàng.
Nguồn cung: Công ty dược phẩm Tekmira, đơn vị sản xuất loại thuốc này thông báo hiện nguồn cung thuốc khá hạn chế.
Thuốc Brincidofovir
Thử nghiệm: Bringcidofovir đã được thử nghiệm trên người với quy mô lớn cho các bệnh truyền nhiễm khác, đem lại kết quả tích cực và tương đối an toàn cho người dùng.
Tuy nhiên, loại thuốc này mới chỉ thử nghiệm với virus Ebola trong phòng thí nghiệm. Nhà sản xuất cho hay Brincidofovir có tác dụng can thiệp vào hoạt động của virus Ebola. Cơ chế: Thuốc Brincidofovir được chế tạo nhằm đối phó với các bệnh do virus gây nên như Adenovirus, CMV (cytomegalovirus) và đậu mùa bằng cách ngăn cản virus tự tái bản.
Người được điều trị: Trong điều kiện thuốc ZMapp cạn nguồn cung, nhóm máu không phù hợp với bác sĩ Brantly, Brincidofovir được lựa chọn điều trị cho bệnh nhân Thomas Eric Duncan, người được chẩn đoán nhiễm Ebola đầu tiên tại Mỹ. Duncan đã tử vong sau vài tuần nhiễm bệnh. Cùng với bệnh nhân Duncan, người quay phim của đài NBC là Ashoka Mukpo cũng dùng thuốc và tình trạng đang tiến triển.
Nguồn cung: Nhà sản xuất chỉ cung ứng số lượng thuốc phù hợp với các thử nghiệm lâm sàng của mình, gồm cả thử nghiệm với bệnh nhân Ebola.
Bên cạnh những phương pháp điều trị không chính thức nói trên,hiện điều trị tích cực đang là cách các nhân viên y tế ở Tây Phi sử dụng trong cuộc chiến tại Tây Phi. Trong đó, bệnh nhân được đảm bảo cung cấp đủ nước thông qua đường miệng hoặc truyền dịch, thở khí oxy, ổn định huyết áp và điều trị những bệnh truyền nhiễm khác nếu có.
Phương pháp này được áp dụng cho khoảng 8.914 ca nhiễm bệnh đã được báo cáo, trong đó 4.447 người không qua khỏi. Điều này đồng nghĩa với việc các bệnh nhân Ebola sẽ sống sót với tỷ lệ 50%, chỉ với các biện pháp điều trị tích cực.
Phương pháp điều trị tích cực gặp rất nhiều khó khăn tại các quốc gia tâm dịch, bởi nó đòi hỏi các vật dụng bảo hộ cá nhân, khu cách ly đảm bảo vệ sinh, giường bệnh, các thiết bị y tế và con người. Trong khi đó, nhân lực và vật lực đang trong tình trạng thiếu thốn nghiêm trọng tại các nước này.
Tổ chức Bác sĩ không biên giới (MSF), tổ chức phi chính phủ đi đầu trong trận tuyến chống Ebola tại tâm dịch đang quá tải trước dịch bệnh và kêu gọi những người hành nghề y hướng về vùng dịch ở Tây Phi. Cơ quan phát triển thế giới của Mỹ (USAID) cũng đang nỗ lực tuyển chọn những nhân viên chăm sóc sức khỏe tình nguyện đến vùng dịch nhằm hỗ trợ các quốc gia chịu thiệt hại nặng nề.
Các nhân viên y tế bản địa là người chịu mọi gánh nặng và áp lực ngay lúc này. Họ không có các trang thiết bị thích hợp cũng như được đào tạo để chăm sóc cho khối lượng khổng lồ bệnh nhân Ebola hiện tại.
Chính các y bác sĩ này lại trở thành nạn nhân của căn bệnh hiểm, với số tử vong trong đội ngũ chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng. Tỷ lệ tử vong của nhân viên y tế tại Sierra Leone là 71%, Liberia là 51% và 52% tại Guinea.
Tại Liberia, các nhân viên y tế đang đứng trước áp lực quá lớn, điều kiện làm việc tồi tệ và lương thấp nên đã đình công 2 ngày đòi tăng lương và cải thiện trang thiết bị y tế.