Hội thảo sơ kết triển khai đào tạo theo chương trình tiên tiến. Ảnh: gdtd.vn |
Những khó khăn về tuyển sinh, giảng viên...
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cho biết, đến nay, cả nước đã có 23 trường ĐH của Việt Nam hợp tác với 22 trường ĐH trên thế giới triển khai 35 chương trình tiên tiến (CTTT), trong đó có 20 chương trình thuộc khối ngành kỹ thuật, công nghệ, 5 chương trình thuộc khối ngành kinh tế, 1 chương trình thuộc khối ngành khoa học sức khỏe, 6 chương trình thuộc khối khoa học tự nhiên và môi trường, 3 chương trình thuộc khối nông nghiệp. Hầu hết các trường đối tác nước ngoài được xếp hạng trong top 200 theo bảng xếp hạng của US News.
Để triển khai đào tạo theo CTTT, các trường đã ký kết thỏa thuận hợp tác với các trường đối tác về xây dựng chương trình đào tạo, cho phép sử dụng giáo trình gốc, tư vấn xây dựng phòng thí nghiệm, cử giảng viên tham gia giảng dạy CNTT và hỗ trợ nghiên cứu khoa học, trao đổi sinh viên, giảng viên trong quá trình đào tạo, việc kiểm định chất lượng, giám sát đào tạo, cấp bằng tốt nghiệp...Hầu hết các trường đã thành lập Ban chỉ đạo, ban điều hành triển khai CTTT; việc bồi dưỡng tiếng Anh cho sinh viên năm nhất được đặc biệt quan tâm; tất cả các trường đào tạo CTTT tuyển sinh năm 2006 và 2008 đều đã tổ chức cho sinh viên đánh giá giảng viên... Hiện có tổng số sinh viên đang theo học tại các chương trình tiên tiến hai khóa này là 2130 em.
Chất lượng đào tạo các CTTT đã bước đầu được khẳng định. Tuy nhiên, bên cạnh việc trình bày những kinh nghiệm đã triển khai các CTTT, để việc đào tạo CTTT tiếp tục đạt được những kết quả về lâu dài, có sức lan tỏa, nhiều đại biểu cũng bày tỏ những khó khăn, vướng mắc, trong đó tập trung nhiều vào vấn đề kinh phí, tuyển sinh, giảng viên, cơ sở vật chất.
Đại diện nhiều trường kỹ thuật cho biết, việc tuyển sinh học CTTT các ngành thuộc khối kỹ thuật khá khó khăn. Hiện các khối ngành này, số lượng sinh viên ở mức trung bình 30-45 sinh viên/khóa, cá biệt, có một số ngành chỉ tuyển được từ 20-30 sinh viên/khóa như ngành Vật lý của ĐH Khoa học – ĐH Huế hay ngành Khoa học vật liệu – ĐH Bách khoa Hà Nội; ngành Hệ thống năng lượng ĐH Bách khoa TP.HCM.
Theo ông Trương Chí Hiền, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa TP.HCM, với mức học phí cao khi theo học các CTTT (nếu không có nguồn tiền từ dự án nữa), thì việc tuyển sinh, thu hút sinh viên giỏi càng khó khăn do các em có khả năng xin học bổng từ nhiều chương trình khác nhau.
Các trường cũng “kêu khó” việc thực hiện mục tiêu của CTTT là đảm bảo những khóa đầu 100% các môn học do giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy. Nguyên nhân do trường đối tác đòi hỏi kinh phí quá cao hoặc các giáo sư nước ngoài không sắp xếp được thời gian. Hiện, số lượng giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy CTTT khóa tuyển sinh 2006 chỉ đạt trên 50% so với kế hoạch của các trường. Trường ĐH Bách khoa Hà Nội chỉ mời được 9 lượt giảng viên cho 2 CTTT trong 3 khóa; ĐH Cần Thơ, 2 khóa mời được 16 lượt giảng viên; nhiều trường chỉ mời được 30-40% giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy theo kế hoạch...
Bên cạnh đó, kinh phí nhà nước hỗ trợ cho CTTT còn hạn chế, theo chế độ bình quân nên một số trường có CTTT khối ngành kỹ thuật, công nghệ, gặp nhiều khó khăn khi thực hiện. Ngoài ra, việc chi trả giờ giảng cho giảng viên dạy CTTT của các trường còn thấp, chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy, động viên các giảng viên dành hết tâm huyết và thời gian cho CTTT. Việc thu học phí thấp cũng sẽ rất khó khăn để duy trì CTTT ở các khóa tiếp theo khi trường phải tự chủ tài chính.
Ngồi bàn đầu (từ trái sang): Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga, Vụ phó Vụ GD ĐH Ngô Kim Khôi. Ảnh: gdtd.vn |
Sẽ có nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo các CTTT
Để đào tạo CTTT tiếp tục được triển khai có hiệu quả, bền vững, Bộ GD&ĐT đã đề ra những nhiệm vụ cần tập trung triển khai, trong đó có nhấn mạnh đến việc tổ chức quảng bá rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng về CTTT; xây dựng chiến lược thu hút sinh viên nước ngoài; nâng cao trình độ tiếng Anh cho sinh viên, nâng cao trình độ tiếng Anh, trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý, giảng viên; có chính sách thu hút giảng viên nước ngoài, giảng viên người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy CTTT; duy trì và tạo độ lan tỏa sâu rộng của chương trình tiên tiến trong hoạt động của trường; tăng cường sự phối hợp, trao đổi giữa các trường thực hiện CTTT; triển khai công tác kiểm định chương trình theo chuẩn quốc tế.
Bộ GD&ĐT cũng sẽ dành một phần kinh phí của đề án 322 cấp cho khoảng 5% số sinh viên tham gia học CTTT sau khi tốt nghiệp thạc sĩ, tiến sĩ tại các trường đối tác. Bộ cũng sẽ làm việc với Bộ Tài chính để miền thuế thu nhập đối với giảng viên nước ngoài sang giảng dạy CNTT ở Việt Nam, đồng thời tiếp tục xem xét, điều chỉnh thông tư liên tịch giữa 2 Bộ về nội dung chi, khoản chi, cho phép điều chỉnh giữa các mục chi... nhằm tạo sự chủ động, trách nhiệm và hiệu quả cao của các trường trong thực hiện CTTT. Xem xét bổ sung nội dung chi phí cho sinh viên đi thực tập, trao đổi ở nước ngoài.
Bộ GD&ĐT cũng sẽ nghiên cứu đề xuất với Chính phủ trong việc điều chỉnh một số phương thức hỗ trợ; việc tiếp tục hỗ trợ sau khóa thứ 3 được xem xét trên cơ sở kết quả và hiệu quả thực hiện các CTTT cụ thể, không đồng loạt như nhau để duy trì sự phát triển bền vững của CTTT, đặc biệt với các ngành khó tuyển sinh nhưng lại rất cần cho sự phát triển của đất nước...
Tại hội thảo, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Vũ Luận nhấn mạnh: mục tiêu quan trọng của đào tạo CTTT là tạo điều kiện xây dựng và phát triển một số ngành đào tạo, khoa, trường ĐH mạnh, đạt chuẩn khu vực và quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng, triển khai chương trình đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam.
Cùng với đánh giá kết quả, Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cũng yêu cầu cần đánh giá hiệu quả, trong đó có cả hiệu quả kinh tế, xã hội, hiệu quả trong và ngoài ngành khi triển khai chương trình. Như vậy, phải xem xét nhiều vấn đề như tài chính, tổ chức bộ máy, giáo viên, trang thiết bị, phòng thí nghiệm, chương trình giáo dục, đặc biệt là vấn đề đổi mới trong phương pháp giảng dạy, học tập, trong việc kết hợp giảng dạy học tập với nghiên cứu khoa học; đổi mới trong tổ chức quản lý và sức lan tỏa của nó trong hoạt động chung của nhà trường.
Bộ trưởng cũng bày tỏ quan điểm, CTTT bước đầu khi còn non yếu, mới mẻ, cần vừa làm vừa học nên phải cơ đỡ đầu, quan tâm đặc biệt, đầu tư thích đáng. Nhưng cũng là vì CTTT nên về lâu dài phải “sống” được tốt và “sống” một cách tự chủ độc lập, trở nhân tố đầu tàu để kéo những toa tàu khác.
Bộ trưởng cũng yêu cầu CTTT cần phải có khả năng nhân rộng, từ 35 chương trình này, nhân rộng ra các chương trình khác, ra các trường khác... nếu không nó chỉ là hiện tượng cá biệt. Để nhân rộng được phải đảm bảo được các lợi ích. Lợi ích của học sinh đã thấy rõ, nhưng lợi ích với thầy giáo Việt Nam thì chưa thấy rõ. Đặc biệt, với các giáo sư nước ngoài, trường nước ngoài, đảm bảo lợi ích mới đảm bảo mối quan hệ bền vững, lâu dài...
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phát biểu chỉ đạo tại hội thảo. Ảnh: gdtd.vn |
Cũng nhấn mạnh đến vấn đề lợi ích và sức lan tỏa của CTTT, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng, vấn đề rất quan trọng của CTTT là tạo được sự đồng hướng lợi ích. Đổi mới mà không tạo được đồng hướng lợi ích của giáo viên, nhà trường, sinh viên, xã hội thì không bền vững, không duy trì được.
Một số vấn đề khác cũng được Phó Thủ tướng nhấn mạnh là việc mời giảng viên nước ngoài đến giảng dạy; kết quả đánh giá đào tạo; việc đồng bộ hóa giáo viên; vấn đề xây dựng bộ chỉ số đánh giá kết quả chương trình...
Nhắc lại triết lý của CTTT là tạo nền chung, xây dựng 1 đỉnh cao, vận hành và lan tỏa, Phó Thủ tướng cũng khẳng dịnh, trong khuôn khổ đổi mới GD đại học nói chung, việc triển khai CTTT là giải pháp có tính chất đặc thù và trong chừng mực nào đó, chính là tính đột phá.
Hiếu Nguyễn