Cặp vợ chồng thương binh và những người con liệt sĩ

Cặp vợ chồng thương binh và những người con liệt sĩ

(GD&TĐ) - Sau năm 1954, cùng với nỗi đau “núi cách sông ngăn” giữa đôi bờ giới tuyến, nhiều cán bộ miền Nam đã phải chịu nỗi đau xa gia đình để tập kết ra Bắc. Trong lúc kẻ thù rắp tâm phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, chia cắt vĩnh viễn nước ta thành hai miền Nam-Bắc, mỗi gia đình cán bộ tập kết đều mang trong mình tâm tư trĩu nặng “ngày Bắc đêm Nam”, bởi họ biết nỗi đau ly tán trong mỗi gia đình rồi sẽ lại tiếp tục dài thêm...  

Trong căn hộ tập thể ở Khu B1 (Phố Phạm Ngọc Thạch, Hà Nội), chúng tôi đã được Đại tá tình báo Lê Văn Trọng kể lại những cảnh đời ly tán vì chiến tranh trong gia đình ông – một gia đình mà cả vợ lẫn chồng đều đã vĩnh viễn mất đi “một nửa” của mình ở bên kia giới tuyến. Ngày đất nước thống nhất, hai người đã tự nguyện “táp” vào đời nhau với một điều an ủi lớn nhất là bên họ vẫn còn bốn người con của những người chồng, người vợ liệt sĩ - những “của để dành” đáng giá sau rất nhiều giông bão của cuộc đời... 

Vợ chồng chiến sĩ tình báo Lê Văn Trọng cùng các con, cháu. (ảnh do gia đình cung cấp)
Vợ chồng chiến sĩ tình báo Lê Văn Trọng cùng các con, cháu. (ảnh do gia đình cung cấp)

Người nữ điệp báo và những bức thư đẫm lệ

Bà Phạm Thị Điểm (còn gọi là Sáu Dung), nguyên cán bộ tình báo của Cục Nghiên cứu - Bộ Tổng Tham mưu (nay là Tổng cục 2-Bộ Quốc phòng) từng nhiều lần xuyên rừng, vượt biển đột nhập vào hang ổ địch làm nhiệm vụ đặc biệt... Năm 1954, bà đã phải tạm biệt chồng và hai con nhỏ ở quê hương Bình Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) để tập kết ra Bắc, trong khi chồng bà - ông Lê Long Châu, Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Quảng Ngãi - được tổ chức bố trí ở lại miền Nam hoạt động bí mật. Ra Hà Nội công tác khi đang mang thai người con út, bà Điểm chỉ có dịp tâm sự cùng chồng, con qua những lá thư mỏng manh, dù không nhiều những trang thư như vậy vượt qua được vĩ tuyến 17 để tới tay người nhận.

Lật giở những trang thư được viết khi đất nước đang ở những ngày đầu bị chia cắt, người đọc nhận thấy bao nỗi nhớ, niềm thương và cả những mong mỏi từng được người viết trải lòng từ cách đây hơn nửa thế kỷ. Năm 1955, sau khi ra Hà Nội, bà Điểm có biên thư thông báo cho chồng, nhưng vì điều kiện hoạt động bí mật nên ông Châu không tiện viết thư cho vợ. Vì thế, mà mãi tới tháng 8-1957 ông Châu mới có thư để “thanh minh” với người vợ yêu dấu. Ngoài những lời quan tâm, động viên gửi tới người vợ đang bụng mang dạ chửa, ông Châu còn gợi ý việc đặt tên con để nhớ ơn các nước bạn trong Ủy hội quốc tế đã giúp ta vận chuyển cán bộ tập kết:

“Em đã lựa đặt tên cho con là gì chưa? Nếu chưa thì anh góp ý đặt tên là Lan hay Xô cũng được, em đi tàu của nước nào thì đặt theo tên của nước ấy để kỷ niệm và nhớ ơn các nước bạn của chúng ta” (Thư ngày 18-8-1957).

Do nhận thư của ông Châu muộn nên khi sinh người con út, bà Điểm đã đặt tên con là Lê Long Thành. Sau này lớn lên, khi nghe mẹ kể lại chuyến tập kết ra Bắc trên chuyến tàu của Ba Lan ở cảng Quy Nhơn, Lê Long Thành đã xăm chữ “Lan” cùng hình chiếc mỏ neo và hai chữ “Q.N” trên cánh tay để nhớ tới lời dặn của cha trong lá thư gửi mẹ...

Đầu năm 1958, bà Điểm hay tin chồng mình bị địch bắt, tra tấn dã man và hy sinh trong nhà tù tỉnh Quảng Ngãi. Cùng với nỗi đau “núi cách sông ngăn” giữa đôi bờ giới tuyến, gia đình bà lại phải lại nén chịu nỗi đau con mất cha, vợ mất chồng. Đọc thư của một người đồng đội gửi từ quê nhà, bà tưởng như đứt từng khúc ruột:

Thím Điểm thân mến!

Tôi kể qua về chú cho thím rõ. Sau khi chú vượt ngục ra được 3 ngày, lần về gần đến cơ sở ở Tịnh Thọ, giáp Bình Thới thì không may gặp phải tên phản động đuổi bắt chú. Vì người yếu, trong tay không có vũ khí, lại 3 ngày liền không có hạt cơm nên bị chúng bắt đem về tỉnh. Chúng tra tấn, hành hạ chú cực kỳ dã man cho đến chết...” (Thư ngày 28-12-1959).

Nén đau thương, Phạm Thị Điểm vừa một mình nuôi con nhỏ, vừa làm tròn nhiệm vụ cấp trên giao phó. Bà đã xuyên Trường Sơn vào chiến trường B2 làm nhiệm vụ của một giao thông viên và được Phòng Tình báo Miền (J22) giao nhiệm vụ vào Sài Gòn bắt liên lạc với các cán bộ điệp báo. Từ trong lòng địch, qua những lá thư gửi về cho các con, bà vẫn không nguôi nỗi đau mất chồng:

Vân, Thanh, Thành con!

Kẻ địch đã cướp mất ba của các con rồi! Từ nay ba sẽ không còn gần các con nữa, nhưng tinh thần, dũng khí cách mạng kiên cường, bất khuất không bao giờ phai nhạt trong tâm trí má, tâm trí các con và trong lòng nhân dân... Các con hãy cố gắng chăm sóc bà ngoại những lúc bà đau ốm và đi theo cách mạng để trả thù cho ba. Má cũng quyết tâm công tác thật tốt, dù trong hoàn cảnh nào má cũng sẽ làm tròn nhiệm vụ Đảng giao để quyết trả thù cho dân tộc và trả thù cho Ba của các con” (Thư ngày 1-1-1966).

Tháng 7-1972, bà Điểm được cấp trên giao nhiệm vụ đặc biệt: Vào Sài Gòn tìm kiếm một cán bộ tình báo bị mất liên lạc. Khi ấy, bà lại tạm biệt đứa con út đang học tại Trường học sinh miền Nam (Đông Triều, Quảng Ninh) với nhiều lần vượt biển Đông vào Nam, ra Bắc để xác định tung tích đồng đội là Tổ trưởng điệp báo Lê Văn Trọng (người bạn đời sau này của bà). 

Lá thư của người chồng liệt sĩ từ 54 năm trước được bà Điểm cẩn thận lưu giữ như một kỷ vật quý.
Lá thư của người chồng liệt sĩ từ 54 năm trước được bà Điểm cẩn thận lưu giữ như một kỷ vật quý.

Chung tay gom nhặt những mảnh đời ly tán

Năm 1967, ông Lê Văn Trọng làm nhiệm vụ trong mạng lưới tình báo tại địa bàn Vùng 1 Chiến thuật của địch. Ông đã xây dựng được cơ sở tình báo tại “Nhà may y phục Thanh Tâm” trên đường Thống Nhất – Thành phố Đà Nẵng và một thời gian sau đó đã nên duyên vợ chồng với cô chủ hiệu may Trà Thị Tâm.

Khi đứa con trai của cặp vợ chồng chủ hiệu may Thanh Tâm vừa sinh được 6 tháng, đúng giữa Tết Kỷ Dậu năm 1969, người chồng lại đột ngột “bỏ đi biệt tăm” mà không có một lời nhắn gửi. Ngay sau đó, hiệu may Thanh Tâm bị an ninh, mật vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa tới lục soát, chúng tới gia đình cha mẹ đẻ của Trà Thị Tâm khám xét và thu được tấm hình người con rể, sau đó địch phát lệnh truy nã người mà chúng nghi là “điệp viên cộng sản”.

Bốn năm liền sống trong không khí ngột ngạt bởi sự kìm kẹp, truy bức của an ninh mật vụ, cũng là bốn năm chúng đón lõng “người chồng bội bạc” tại nhà cô chủ hiệu may. Cuối tháng 6 năm 1973, địch đã bắt giam Trà Thị Tâm cùng đứa con trai Lê Văn Hùng trong một lần cô có việc về Sài Gòn. Chỉ trong 4 ngày, Tâm đã bị địch tra tấn dã man cho đến chết mà không khai thác được thông tin nào về người chồng từng “bỏ nhà biệt tích”. Trở thành đứa con mồ côi khi mới 5 tuổi, Lê Văn Hùng đã được ông bà ngoại đón từ trại giam Chí Hòa về Đà Nẵng nuôi nấng, chăm sóc...

“Bà Điểm hiểu rất rõ hoàn cảnh éo le của tôi: vợ tôi bị địch tra tấn và hy sinh trong tù khi đứa con trai vừa mới lên 5 tuổi. Vì vậy khi trên đường tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày 11-4-1975, bà Điểm đã tìm tới địa chỉ gia đình tại Đà Nẵng để báo tin cho mẹ vợ và đứa con trai biết tin tôi vẫn còn sống sau gần 10 năm xa vợ, xa con mà không một dòng nhắn gửi” - Đại tá Lê Văn Trọng nhớ lại.

Khi thành phố Đà Nẵng vừa được giải phóng, bà Điểm đã tìm tới địa chỉ gia đình ông bà ngoại của Hùng (tại 111, đường Thống Nhất, Quận 2, Đà Nẵng) để báo tin: “Người con rể bội bạc” của gia đình hiện vẫn còn sống. Ba ngày sau, ở ngoài Bắc, “người cha bội bạc” đã nhận được lá thư chuyển tay với những nét chữ ngộ nghĩnh của Lê Văn Hùng (đứa con mà ông từng rời xa khi Hùng 6 tháng tuổi) – bức thư mà mỗi lần đọc lại, ông đã không sao ngăn được những dòng lệ rơi trên khóe mắt:

Đà Nẵng, 11-4-1975

Ba kính!

Đọc được thư ba con mừng quá. Con nhớ ba nhiều, con trông gặp ba ghê. Má chết con buồn, bà ngoại thương nhớ má, bà ngoại già ghê và ốm. Bà ngoại thương con nhiều, ba khỏi lo. Con năm nay học lớp 2, con khỏe mạnh thường, lớn mau, con hết bịnh rồi. Khi nào ba về thăm con nghe. Con trông ba nhiều, nhớ ba lắm. Con gởi ba hai cái hình hồi bọn ác ôn bắt con và má nhốt ở Sài Gòn.

Con

Lê Văn Hùng”.

Ít ai biết được “người cha biệt tích” năm xưa chính là Đại tá tình báo Lê Văn Trọng, còn vợ ông - liệt sĩ Trà Thị Tâm - cũng là một nữ điệp viên từng hoạt động cách mạng dưới vỏ bọc “Hiệu may Thanh Tâm”... Vì cơ sở bị lộ mà ông đã phải vào Sài Gòn ẩn náu rồi sau đó bị địch bắt, tra tấn với tội danh “dùng căn cước giả”. Sau 7 tháng xuyên rừng, vượt biển vào Nam ra Bắc, nữ điệp báo Phạm Thị Điểm đã mang tấm căn cước mới từ Hà Nội vào để “giải cứu” người đồng đội Lê Văn Trọng khỏi nanh vuốt kẻ thù...

Ngày đất nước thống nhất, ông Trọng đã đón người con duy nhất của mình từ Đà Nẵng ra Hà Nội, còn bà Điểm cũng về lại quê hương Quảng Ngãi tìm hai đứa con lưu lạc trong chiến tranh. Khi ấy, bà mới biết người con gái lớn do nghèo khổ mà phải vào hái chè thuê ở Đà Lạt, trong khi đứa con trai thứ hai do sợ bị địch khủng bố vì có người thân đi theo Việt Cộng nên đã xuống tóc đi tu. Bà Điểm đã tới chùa Nghĩa Hành (Quảng Ngãi) khuyên con về tu tại gia, rồi tiếp tục cho các con học hành, đỗ đạt, cô con gái đầu trở thành giáo viên, người con thứ hai là bác sỹ và cậu út được sinh ra ở miền Bắc sau này đã trở thành kỹ sư bưu điện.

Sau những giông bão, li tán từ cuộc chiến tranh, những “của để dành” là bốn người con liệt sĩ ấy đã trưởng thành trong một tổ ấm mà hai thương binh - hai chiến sĩ tình báo đang cùng nhau nương tựa...

Bùi Vũ Minh

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Toạ đàm “Trí tuệ nhân tạo và ảnh hưởng trong các trường ĐH” trong khuôn khổ Hội thảo “AI và tương lai giáo dục ĐH”.

AI và tương lai giáo dục đại học

GD&TĐ - Ngày 11/12, hội thảo “AI và tương lai giáo dục ĐH” được tổ chức nhằm chia sẻ nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn của trí tuệ nhân tạo trong giáo dục ĐH.