Sáng nay, 5/5, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân đối thoại trực tuyến với nhân dân tại Cổng TTĐT Chính phủ.
Bộ trưởng Bộ KH-CN Nguyễn Quân. Ảnh: Chinhphu.vn |
Đây là hoạt động nhằm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương tăng cường giao lưu trực tuyến, đối thoại trực tuyến trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ góp phần định hướng dư luận, tạo đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
BTV: Có ý kiến cho rằng, việc sử dụng ngân sách Nhà nước đầu tư cho KHCN chưa được sử dụng đúng cách, đặc biệt là đầu tư cho phát triển KHCN địa phương. Là người đứng đầu Bộ KHCN, quan điểm của ông về ý kiến này như thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Cảm ơn độc giả đã đặt câu hỏi rất chính xác, hiện nay mức chi cho KHCN chiếm 2% tổng chi ngân sách. Việc sử dụng nguồn kinh phí này chưa đạt hiệu quả cao, trong đó chủ yếu là do cơ chế phân bổ ngân sách, hàng năm chúng ta dành khoảng 42-43% kinh phí này cho đầu tư phát triển và bố trí cho các bộ, ngành, địa phương tuy nhiên do quy định của luật ngân sách, quy định của luật tổ chức HĐND, UBND phân cấp thẩm quyền cho địa phương nên nhiều địa phương và một số bộ, ngành sử dụng không đúng mục đích cho đầu tư phát triển KHCN.
Nhiều địa phương, bộ, ngành sử dụng kinh phí này xây trụ sở, làm đường xá, đắp đê thậm chí làm những việc không liên quan đến KHCN. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư của Nhà nước dành cho phát triển tiềm lực KHCN của các bộ, ngành, địa phương. Phần kinh phí còn lại là kinh phí sự nghiệp khoa học thì rất nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức sử dụng không hiệu quả thông qua việc sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học không dành cho khoa học như xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị quá nhiều, đầu tư cho những nhiệm vụ không xứng tầm và không đáp ứng được nhu cầu phát triển của bộ, ngành, địa phương; sản phẩm nghiên cứu ít được áp dụng trong thực tiễn.
Trong thời gian tới phải điều chỉnh mục tiêu này, làm sao Bộ KHCN có đủ thẩm quyền để đề xuất việc phân bổ kinh phí, kể cả đầu tư phát triển vào sự nghiệp KHCN và trong Chiến lược phát triển KHCN đến 2020 Thủ tướng Chính phủ cũng chỉ đạo việc phân bổ kinh phí phải theo tiêu chí và hiệu quả hoạt động KHCN của các bộ, ngành địa phương, nơi nào làm tốt cần được đầu tư nhiều hơn, nơi nào làm không tốt thì sẽ bị cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách.
The Ha Nguyet [thehsk196lac@...com] : Là một nhà khoa học tôi thấy kết luận ban đầu về nguyên nhân cháy, nổ xe như liên Bộ mới đưa ra là không thuyết phục vì không chỉ ra được nguyên nhân làm số vụ cháy nổ xe tăng đột biến gần đây? Tôi thấy các kết quả của các nhóm nghiên cứu này chỉ phản ánh các sự cố hy hữu mà bao năm qua vẫn tồn tại, trong khi đó chỉ trong vòng gần 2 năm rưỡi gần đây đã có 349 vụ cháy, nổ xe máy, ô tô xảy ra. Hiện nay chúng ta có dùng xăng A83 nữa đâu mà đưa vào nghiên cứu. Xin bộ trưởng cho biết ý kiến của mình về vấn đề này?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề cháy nổ xe cơ giới- vấn đề gây bức xúc xã hội trong thời gian gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo liên Bộ Công an, Giao thông vận tải, Khoa học và Công nghệ và Công Thương phối hợp xác minh nguyên nhân và đề xuất giải pháp hạn chế cháy nổ xe cơ giới.
Tất nhiên đây mới là kết quả bước đầu. Vừa rồi, Bộ Công an đã chủ trì cùng các Bộ tổ chức họp báo công bố bước đầu các kết quả điều tra về nguyên nhân gây cháy nổ. Có thể kết luận này chưa làm thoả mãn quan điểm của nhiều độc giả. Tuy nhiên, có thể nói, việc cháy nổ xe cơ giới không phải hiện tượng cá biệt của Việt Nam, tất cả các nước trên thế giới đều có hiện tượng này, chỉ khác nhau về mức độ. Có những nước tỷ lệ cháy nổ cao hơn chúng ta, nhưng cũng có nước thấp hơn.
Vừa rồi, tỷ lệ này ở nước ta tăng đột biến trong 2 năm 2010 và 2011. Cho nên, xã hội cũng rất bức xúc và yêu cầu Chính phủ phải làm thật rõ để có giải pháp ngăn chặn. Tôi cho rằng, xăng dầu được xã hội đặt vào vòng ngắm đầu tiên. Tuy nhiên, xăng dầu chỉ là chất cháy, để nó cháy được phải có tác động của nguồn nhiệt, cụ thể là phải có tia lửa. Vì vậy, khi xảy ra các vụ cháy nổ ô tô, xe máy, cơ quan công an cùng các bộ ngành liên quan đã tiến hành điều tra xác minh.
Chúng tôi đã yêu cầu Tổng cục Đo lường Chất lượng là cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng xăng dầu vào cuộc, lấy mẫu từ các xe bị cháy còn sót lại, lấy mẫu từ các cây xăng mà các xe này đã mua xăng theo khai báo của chủ xe để xét nghiệm. Tất cả các mẫu xét nghiệm này đều không vi phạm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xăng dầu. Vì thế, có thể nói, kết luận bước đầu của Bộ Công an đánh giá nguyên nhân cháy nổ khoảng trên 30% do chập điện, trên 15% là do sự cố kỹ thuật khác, còn lại nhiều nguyên nhân như vô tình hữu ý của người sử dụng xe hay những nguyên nhân do tai nạn…
Những lý do này có thể chưa làm thoả mãn độc giả. Hôm qua tôi có trao đổi với 1 nhà khoa học có danh tiếng và nhà khoa học này có mấy ý kiến mà chúng ta cần phải nghiên cứu. Tôi cũng đề nghị các cơ quan điều tra cần phải đi theo hướng này. Đó là các vụ cháy nổ xảy ra thì xăng dầu tại thời điểm đó không phải là nguyên nhân trực tiếp nhưng rất có thể chất lượng xăng dầu của thời gian trước đó là nguyên nhân gián tiếp gây ra những sự cố này. Ví dụ trước đó nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí hàng năm, nếu như xe máy có sử dụng xăng dầu pha chất phụ gia mà gây hại như axeton có thể ăn mòn chi tiết động cơ, làm thủng bình chứa xăng, thủng đường ống dẫn bằng nhựa, làm thoái hoá gioăng đệm của động cơ dẫn tới rò rỉ xăng ở mức độ nghiêm trọng và trong quá trình vận chuyển trên đường, với ma sát của các bộ phận cơ khí với tia lửa của chập điện, rất dễ xảy ra cháy nổ. Tuy nhiên, khó khăn là chúng ta không thể điều tra, xét nghiệm lại các mẫu xăng dầu của giai đoạn trước vì đã được tiêu thụ hết.
Vì vậy chúng tôi cho rằng, song song với việc tiếp tục điều tra nguyên nhân gây cháy nổ, các bộ, ngành phải kiểm soát thật chặt chẽ chất lượng xăng dầu kể từ thời điểm này cho tới giai đoạn tiếp theo để tránh xảy ra cháy nổ trong giai đoạn tới.
Về chất lượng xăng dầu, chúng tôi thời gian qua đã tăng cường kiểm soát. Hàng năm các sở KHCN, các chi cục tiêu chuẩn đo lường và chất lượng cùng các trung tâm kỹ thuật về tiêu chuẩn và chất lượng của chúng tôi thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử phạt và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng những cây xăng, đại lý vi phạm về đo lường chất lượng xăng dầu.
Thường thì 3-4 năm, chúng tôi tổ chức thanh tra diện rộng toàn quốc về xăng dầu, thanh tra Bộ phối hợp với thanh tra của các sở cùng với cơ quan quản lý thị trường, công an kinh tế thanh tra diện rộng và mỗi đợt thanh tra diện rộng đó, chúng tôi kiểm tra toàn bộ mạng lưới phân phối và bán xăng dầu đồng thời xử phạt hang nghìn cây xăng có vi phạm về đo lường và chất lượng xăng dầu. Tổng số tiền phạt trong những đợt này thường dao động từ 3-5 tỷ đồng.
Tất nhiên mức phạt đó chưa đủ mạnh để răn đe. Gần đây với luật xử phạt vi phạm hành chính mới mức phạt đã tăng lên, chúng tôi hy vọng là đủ sức răn đe đối với các hành vi vi phạm về chất lượng xăng dầu.
Riêng đối với xăng A83, tôi xin đính chính, hiện nay chúng ta vẫn còn có 1 số phương tiện giao thông và một số lĩnh vực vẫn sử dụng xăng A83. Đặc biệt là trang thiết bị được sản xuất trong giai đoạn trước của các nước XHCN và Liên Xô cũ. Tỷ lệ không nhiều nhưng vẫn còn sản xuất và sử dụng A83. Các đối tượng vi phạm thường sử dụng xăng A83 với giá thành thấp pha trộn với các xăng khác hoặc bán với giá xăng A92, 95 để kiếm lợi. Khi phát hiện, thanh tra KHCN cùng các cơ quan chức năng xử phạt rất nghiêm minh. Chúng tôi đã trình Chính phủ cho phép chấm dứt sử dụng xăng A83 trong thời gian tới.
Nguyen thu hang [hangvd2gmail.com]: Tình trạng người tiêu dùng bị các cây xăng "móc túi" cả về lượng và chất đã tồn tại nhiều năm nay nhưng việc xử lý còn lúng túng, chế tài xử phạt còn chưa nghiêm, vậy trách nhiệm của Bộ KHCN đến đâu? Bộ trưởng có biện pháp gì giải quyết dứt điểm tình trạng này không? Liệu có thể công bố công khai trên báo chí các cây xăng gian lận đã bị xử phạt để người dân “tẩy chay” không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Việc xử lý các vi phạm về chất lượng xăng dầu phải theo quy định của pháp luật. Bộ đã xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, Luật Đo lường, trình Chính phủ ban hành các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này, các mức xử phạt của các Nghị định này phải tuân thủ mức xử phạt chung của Nghị định xử phạt vi phạm hành chính.
Trước đây mức xử phạt không đủ răn đe với mức phạt rất thấp. Vừa rồi mức phạt được nâng lên tới 500 triệu đồng, trong trường hợp đặc biệt còn có các chế tài khác kèm theo.
Trong thực tế, trong các đợt thanh tra diện rộng về xăng dầu, chúng tôi ngoài xử phạt về hành chính đã kiến nghị Bộ Công Thương rút giấy phép kinh doanh nhiều đại lý xăng dầu vi phạm, vi phạm cả về đo lường (đong thiếu cho khách hàng), về chất lượng (cho thêm tạp chất khác như nước, axêton, dầu hỏa, methanole… vào trong xăng dầu để kiếm lợi).
Đã có nhiều cây xăng bị thu hồi vĩnh viễn nếu vi phạm nghiêm trọng. Tất nhiên có cây xăng chỉ bị thu hồi một thời gian, điều này cũng nằm trong quy định của pháp luật nếu mức vi phạm không đủ nghiêm trọng. Hoặc doanh nghiệp có thể bị giải thể sau đó thành lập doanh nghiệp mới lại được quyền đăng ký kinh doanh thì cũng không thể loại trừ.
Tuy nhiên chúng tôi cũng thống nhất rằng phải tăng cường kiểm soát chất lượng xăng dầu, nâng mức xử phạt đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính răn đe của pháp luật.
BTV: Thưa Bộ trưởng, Bộ trưởng nghĩ sao về tình trạng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí có doanh nghiệp lớn quốc doanh vẫn nhập dàn thiết bị máy móc các nước tiên tiến không dùng từ lâu. Theo ông, tình trạng này trong vài năm tới sẽ xử lý thế nào?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Chúng ta đều biết để đổi mới CN, các doanh nghiệp phải hoặc thông qua con đường nghiên cứu, tự nghiên cứu, ứng dụng CN mới hoặc nhập khẩu CN hoặc nhập khẩu thiết bị chứa CN để tạo ra sản phẩm mới.
Đúng như bạn vừa đề cập, chúng tôi thấy nhiều doanh nghiệp hiện nay có xu hướng thích nhập công nghệ của nước ngoài, thường là nhập thiết bị toàn bộ, và khi nhập thì thường nhập CN cũ và lạc hậu. Điều này cũng xuất phát từ nguyên nhân, một là như tôi đã nói, thị trường CN của chúng ta còn manh nha, doanh nghiệp rất thiếu thông tin về nguồn CN trong nước, các nhà khoa học không nắm rõ nhu cầu CN của doanh anghiệp.
Thứ 2, tiềm lực doanh nghiệp còn non yếu, chúng ta không đủ kinh phí, tiền để mua được thiết bị, công nghệ mới, hiện đại.
Thứ 3, trình độ CN chung của nước ta còn thấp. Theo đánh giá của chúng tôi qua khảo sát, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay đang sử dụng CN lạc hậu của thập kỷ 60, 70. Rất ít doanh nghiệp sử dụng CN của thập kỷ 80, 90, chỉ có một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì sử dụng CN của những thập kỷ gần đây.
Do vậy, nếu chúng ta nhập CN mới và hiện đại, nhiều khi không phù hợp với trình độ CN chung của hệ thống. Thêm nữa, các địa phương khi phê duyệt dự án đầu tư kể cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thường không tham khảo ý kiến của các nhà khoa học, Sở KHCN, cho nên không đánh giá được trình độ CN của dự án hay dây chuyền thiết bị được nhập khẩu.
Chỉ đến khi những dây chuyền thiết bị này hoạt động gây ô nhiễm môi trường, không hiệu quả lúc ấy người ta mới nhớ đến các nhà khoa học. Nhưng các nhà khoa học lúc ấy chỉ có thể đề xuất biện pháp để xử lý chứ không thể khắc phục những hậu quả của những thiết bị , CN này đã gây ra.
Cho nên, chúng tôi cho rằng, các địa phương, bộ, ngành khi nhập khẩu trang thiết bị có liên quan tới CN nên tham khảo ý kiến của các nhà KH, các hội đồng KH và các cơ quan có trình độ đánh giá trình độ CN của các dây chuyền này để khi đưa vào sản xuất, chúng ta không hối tiếc vì đã nhập CN.
Hơn nữa nhà nước cũng nên hỗ trợ cho các DN để họ có thể nhập khẩu được CN thay vì nhập khẩu thiết bị toàn bộ bởi năng lực chế tạo thiết bị của chúng ta không phải là không có.
Chúng ta có đủ năng lực để chế tạo thiết bị có trình độ CN cao, nhưng cái thiếu của chúng ta là CN và bí quyết CN của những thiết bị này. Do vậy, thay vì chúng ta nhập khẩu cả 1 nhà máy hay dây chuyền thiết bị lớn, hãy hỗ trợ doanh nghiệp mua CN, thuê chuyên gia và sau đó đặt hàng các doanh nghiệp trong nước chế tạo những thiết bị đồng bộ hay dây chuyền sản xuất có hiệu quả cao hơn và cũng không đến nỗi ở trình độ KHCN quá thấp kém.
BTV: Có quan điểm cho rằng, phát triển điện hạt nhân hiện nay là rất nguy hiểm (qua các sự cố tại Nga và Nhật), các nước phát triển đang “bỏ” nguồn năng lượng này để chuyển sang phát triển nguồn năng lượng sạch, an toàn hơn. Tại sao Việt Nam không ‘đi tắt, đón đầu” như các nước phát triển đang làm?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Ý kiến này cũng có phần đúng. Sau sự cố Chernobyn năm 1987, rất nhiều quốc gia phát triển đã dừng hoặc huỷ bỏ chương trình điện hạt nhân của họ. Nhưng sau một thời gian thì người ta lại thấy rằng, vẫn chưa có con đường đi nào khác, họ lại tái khởi động chương trình điện hạt nhân, kể cả các nước châu Âu.
Vừa rồi năm 2011, sau sự cố Fukushima, các quốc gia này lại một lần nữa giật mình và lại dừng chương trình điện hạt nhân, kể cả Nhật Bản là một nước có 54 lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động, theo thông tin báo chí, hôm qua đã đóng cửa lò phản ứng hạt nhân cuối cùng.
Nhưng tôi biết rằng, có rất nhiều xu hướng, kể cả tại Nhật Bản vẫn có kiến nghị sau khi nâng cấp mức độ an toàn thì tái khởi động các nhà máy hạt nhân này. Trên thực tế nhiều quốc gia phát triển tiếp tục chương trình điện hạt nhân của họ. Muốn bỏ qua giai đoạn phát triển điện hạt nhân, nhưng chúng ta chưa nhìn thấy nguồn năng lượng nào khác có thể thay thế nó.
Như tôi đã nói, dầu và than của chúng ta đang cạn kiệt, năng lượng mới, công nghệ mới chỉ là sản xuất nhỏ và giá thành rất cao, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước ta trong giai đoạn tới. Vì thế, tại các nước phát triển, điện hạt nhân có thể chỉ chiếm tỷ trọng không lớn, họ có thể đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân và tìm các nguồn năng lượng khác thay thế, họ có thể có đủ tiền để mua dầu mỏ từ Trung Đông, mua than từ các quốc gia khác, mua khí thiên nhiên từ Nga, nhưng với chúng ta, tất cả những yếu tố đó đều là bài toán chưa thể giải đáp.
Chúng ta không đủ tiền nhập nguồn nguyên liệu hoá thạch với giá ngày càng cao. Chúng ta cũng chưa có công nghệ sản xuất điện từ năng lượng tái tạo như mặt trời, gió, thuỷ triều. Nếu chúng ta làm điện hạt nhân hiện nay, chúng ta có thể sử dụng được nguồn ODA của các nước phát triển.
Trong một chừng mực nào đó, nếu như không có những sự cố khủng khiếp như thảm hoạ kép động đất, sóng thần thì các nhà máy điện hạt nhân có thể nói là an toàn và kinh tế hơn so với các nhà máy điện khác.
Các nhà máy điện dùng nguồn nhiên liệu hoá thạch thải ra lượng khí nhà kính khổng lồ, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Các nhà máy thuỷ điện cũng tương tự như vậy, các hồ chứa cũng gây rất nhiều hệ luỵ về môi trường. Chúng ta cũng không còn nguồn tiềm năng để làm thuỷ điện. Nhà máy thuỷ điện Lai Châu chắc là nhà máy thuỷ điện lớn cuối cùng của chúng ta.
Vì vậy, chúng ta không tránh khỏi việc sử dụng điện hạt nhân. Vấn đề ở chỗ, chúng ta yêu cầu các đối tác phải nâng mức độ an toàn lên cao hơn, và trong quá trình khảo sát địa điểm xây dựng nhà máy, chúng ta cũng phải thận trọng hơn.
Nhưng tất cả những yếu tố đó đều làm cho giá thành của nhà máy điện hạt nhân cao hơn rất nhiều so với mức dự toán ban đầu. Và vì vậy, chúng ta lại càng phải tính toán một cách thận trọng hơn cho việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân tiếp theo. Hy vọng trong tương lai, chúng ta có công nghệ khác, nguồn năng lượng khác thì không phải tiếp tục phát triển điện hạt nhân.
Bùi Quốc Huy, Chùa láng – Láng thượng – Đống đa - Hà Nội: Như ông nói điện hạt nhân rất cần các chuyên gia giỏi, tuy nhiên nhà máy ĐHN đầu tiên sẽ được khởi công trong năm 2014 và chính thức phát điện vào năm 2020. Theo ông, chúng ta có đảm bảo được nhân lực cho nhà máy ĐHN khi nhà máy vận hành?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tôi rất lo lắng về nguồn nhân lực cho điện hạt nhân, nếu không có chính sách phù hợp mang tính đột phá thì chắc chắn sẽ không chuẩn bị được đội ngũ cán bộ, cán nhà khoa học, kỹ thuật viên, công nhân có đủ trình độ để vận hành nhà máy.
Mặc dù chúng ta đang có lợi thế là đội ngũ cán bộ KHCN trong lĩnh vực hạt nhân tương đối mạnh, là kết quả của quá trình đào tạo trong nhiều năm khi chúng ta còn mối quan hệ tốt đẹp với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề này trong thời gian đó. Tuy nhiên đội ngũ này bắt đầu có tuổi, chúng ta cần đào tạo cán bộ trẻ tiếp cận với công nghệ mới với tri thức khoa học mới về công nghệ hạt nhân.
Trong những năm qua chúng ta đã gửi đi đào tạo ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Ấn Độ rất nhiều cán bộ khoa học trẻ cũng như đã cử cán bộ khoa học có trình độ đi bồi dưỡng nâng cao ở các nước này. Tuy nhiên để thu hút cán bộ trẻ ở lĩnh vực này phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng vì đây là lĩnh vực rất vất vả và phải chịu đựng rủi ro trong suốt cả cuộc đời khi làm việc về năng lượng nguyên tử.
Nếu chúng ta không kịp thời công bố, công khai chế độ đối với những người đi học về năng lượng hạt nhân, công nghệ hạt nhân cũng như công khai chế độ đối với những người sẽ làm việc trong nhà máy điện hạt nhân và các cơ sở nghiên cứu trong nhà máy điện hạt nhân thì chắc chắn không thu hút được những người giỏi vào làm việc trong lĩnh năng lượng hạt nhân nói chung cũng như nhà máy điện hạt nhân nói riêng.
Chính phủ đã có một chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân trong đó dành khoảng 2.000 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước để đào tạo cán bộ khoa học trong lĩnh vực này từ trình độ cao đẳng, đại học đến trên đại học cũng như đào tạo chuyên gia cho các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam dành khoảng 1.000 tỷ đồng từ ngân sách của Tập đoàn để đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân vận hành nhà máy điện hạt nhân.
Tuy nhiên tôi cho rằng nguồn kinh phí chỉ có thể phát huy hiệu quả nếu chúng ta có chính sách đãi ngộ phù hợp, có thể dành ra hàng chục tỷ USD để xây dựng điện hạt nhân thì chúng ta nên dành một tỷ lệ thích đáng để đào tạo và đãi ngộ đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực này. Có như thế chúng ta mới đảm bảo được sự an toàn cũng như hiệu quả hoạt động của điện hạt nhân trong tương lai.
BTV: Có nhiều bạn đọc gọi điện hỏi Nhà máy điện hạt nhân do Việt Nam xây dựng có an toàn không?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đối với 2 nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Ninh Thuận, chắc chắn chúng ta chưa đủ kinh nghiệm để trực tiếp giám sát quá trình xây dựng. Dĩ nhiên, xây dựng phải là người Việt Nam, nhưng chúng ta sẽ phải thuê tư vấn giám sát nước ngoài, đặc biệt là những cơ quan có kinh nghiệm xây dựng nhà máy điện hạt nhân trên thế giới.
Chúng tôi đã có chương trình hợp tác, tìm kiếm đối tác, trước mắt thuê chuyên gia tư vấn trong việc thẩm định hồ sơ thiết kế cũng như báo cáo đầu tư của các chủ đầu tư cũng như của các nhà thầu.
Song song, chúng tôi gửi chuyên gia đi đào tạo để có đủ trình độ giám sát toàn bộ quá trình xây dựng nhà máy, đưa nhà máy vào vận hành, cùng với các nhà thầu quốc tế, nhà tư vấn giám sát quốc tế trong quá trình đó, ta học hỏi kinh nghiệm của họ.
Chúng tôi cũng hy vọng nếu làm tiếp nhà máy số 3 và 4 thì các chuyên gia của chúng ta có thể đủ trình độ để giám sát, tư vấn và đảm bảo chất lượng công trình xây dựng nhà máy, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế và Việt Nam.
BTV: Song song với việc chúng ta đưa chuyên gia của chúng ta đi học tại nước ngoài thì Bộ trưởng có nghĩ rằng chúng ta có thể đề xuất với Bộ GDĐT tại các trường ĐH ở Việt Nam như ĐH Bách Khoa hoặc những ĐH Kỹ thuật có thể thành lập những khoa đào tạo dài hơn không phụ thuộc vào đào tạo tại nước ngoài?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Nếu làm việc trong lĩnh vực hạt nhân thì 8 năm là thời gian quá ngắn để có đủ kinh nghiệm để làm được vấn đề lớn. Tuy nhiên trong gói 2.000 tỷ đồng mà Chính phủ đã bố trí có phần đào tạo trong nước, trên thực tế Ban Chỉ đạo Nhà nước về Dự án điện hạt nhân đã giao nhiệm vụ cho các trường ĐH Kỹ thuật của Việt Nam như ĐHBK Hà Nội, ĐHQG Hà Nội, ĐHBK TP.HCM, ĐHBK Đà Nẵng phối hợp với nhau để đào tạo nguồn nhân lực cho điện hạt nhân.
Vấn đề này có một thuận lợi là ĐHBK Hà Nội trong nhiều năm trước đây có bộ môn vật lý hạt nhân, có đào tạo kỹ sư về vật lý hạt nhân nhưng do cơ chế thị trường trong mấy năm gần đây rất ít sinh viên theo học ngành này nên số lượng kỹ sư được đào tạo về hạt nhân không đáp ứng được yêu cầu.
Vì vậy, song song với việc giao cho các trường ĐH Kỹ thuật của Việt Nam xây dựng chương trình đào tạo và đào tạo trực tiếp các kỹ sư về hạt nhân thì chúng ta vẫn phải đưa đi nước ngoài. Các trường tại nước ngoài có đầy đủ kinh nghiệm, trang thiết bị, truyền thống nên họ đào tạo chắc chắn chất lượng cao hơn và đáp ứng nhu cầu của chúng ta.
Chúng tôi có chương trình đào tạo chuyên gia cả về chuyên gia an toàn lẫn công nghệ để phục vụ điện hạt nhân. Một điều may mắn nữa là Chính phủ Nga đồng ý giúp Việt Nam xây dựng Trung tâm KHCN hạt nhân với lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu thế hệ mới, công suất lớn, trị giá toàn bộ công trình lên đến 500 triệu USD.
Có lẽ đây là công trình nghiên cứu lớn nhất mà Việt Nam có trong thời điểm này. Hiện nay chúng ta đang lựa chọn địa điểm cho hoạt động đầu tư để trong thời gian trước khi nhà máy điện hạt nhân đi vào hoạt động thì chúng ta có thể hoàn thành Trung tâm KHCN hạt nhân với đội ngũ cán bộ KH đủ trình độ và với trang thiết bị tiên tiến đáp ứng nhu cầu phát triển điện hạt nhân của chúng ta.
Nguyen thu nguyet (thu.nguyetnbtu@...com): Mới đây, trong nội dung của dự thảo thông tư liên tịch mà liên Bộ Khoa học công nghệ, Công Thương, Giao thông vận tải và Công an đang xây dựng đã quy định: “Người điều khiển xe mô tô, gắn máy đội mũ bảo hiểm thời trang, mũ nhái mà không có tem CR hợp chuẩn sẽ bị xử phạt như mức không đội mũ bảo hiểm”. Thưa Bộ trưởng đây có phải việc làm khi cơ quan chức năng khó kiểm tra, kiểm soát và xử lý thì “đổ khó” cho người dân?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Về vấn đề mũ bảo hiểm chúng tôi đã nhiều lần trao đổi với báo giới. Chính phủ đã quy định, người tham gia giao thông phải đổi mũ bảo hiểm đảm bảo tính năng kỹ thuật theo quy chuẩn do nhà nước quy định.
Tuy nhiên, thực tế, nhiều người đội mũ không đúng quy chuẩn. Hay nói cách khác, đội mũ chỉ để đối phó với công an, không phải để bảo vệ đầu của mình cũng như vì sức khoẻ của cộng đồng. Về quản lý chất lượng mũ bảo hiểm, chúng tôi đã ban hành đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thông tư. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đội mũ không đúng quy định vẫn diễn ra. Các nhà sản xuất vì trục lợi và người tiêu dùng vì ham rẻ nên vẫn sản xuất và mua bán các loại mũ không phải là mũ bảo hiểm.
Tất nhiên, những loại mũ này rất rẻ tiền và bày bán tràn lan, rất dễ mua. Nếu như nói rằng, những người đội mũ rởm, mũ nhái không có tem, bị xử phạt thì coi là cơ quan nhà nước không quản lý được, đổ khó cho người dân thì tôi cho không hẳn như thế.
Thực tế chúng ta quản lý việc này rất chặt chẽ. Tất cả các doanh nghiệp nhập khẩu và sản xuất mũ bảo hiểm đều phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước và đem mẫu đến để thử nghiệm ở các trung tâm tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ KHCN cũng như của các địa phương. Khi đạt được tiêu chuẩn, đều được dán nhãn (tem CR) và được lưu thông. Chúng tôi cũng yêu cầu tất cả các công ty sản xuất và nhập khẩu phải niêm yết công khai danh mục các đại lý mà kinh doanh mũ bảo hiểm của mình cho người dân biết để không mua phải mũ rởm. Vấn đề còn lại là người dân có chịu đến mua ở những đại lý bán mũ tốt và có đăng ký hay không?
Những người sản xuất mũ rởm lách luật bằng cách nói rằng, đấy không phải là mũ bảo hiểm, người ta bán cho người đi bộ, tập thể dục, đi xe đạp và như thế cơ quan chức năng không thể xử lý được.
Luật của chúng ta không cấm kinh doanh mũ dành cho người đi xe đạp, người đi bộ. Trong khi người ta lại dùng mũ đó để đi xe máy. Nếu các cơ quan quản lý phát hiện, cảnh sát giao thông phát hiện, thì hoàn toàn có thể xử phạt, nhưng người ta sẽ lại lý sự rằng, tôi không biết mũ này không dành cho người đi xe máy.
Tôi rất ủng hộ thành phố Đà Nẵng vừa qua bán mũ đảm bảo chất lượng tốt, giá rẻ (50.000 đồng) để người dân được đổi mũ cũ lấy mũ mới, đổi mũ rởm lấy mũ thật. Đây cũng là biện pháp hỗ trợ người dân bởi nếu mua mũ 200-300.000 đ, họ thấy không phù hợp với điều kiện kinh tế của họ. Nhưng nếu mua mũ thật, chỉ có giá 50.000 thì họ hưởng ứng. Hơn nữa, lãnh đạo thành phố Đà Nẵng cũng yêu cầu các cơ quan chức năng cung cấp máy thử nghiệm tại chỗ, mũ nào không đạt yêu cầu thì phá huỷ tại chỗ. Sau đó, bán lại cho người điều khiển phương tiện mũ bảo hiểm đạt yêu cầu với giá chỉ 50.000 đồng.
Tôi không biết các tỉnh thành phố khác có thể học tập Đà Nẵng được không vì ngân sách của TP, tỉnh phải hỗ trợ rất lớn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng khuyến cáo nhân dân không nên tham rẻ, mua mũ bảo hiểm kém chất lượng bày bán ở các đại lý không được uỷ quyền và mua mũ chỉ để đối phó với cảnh sát giao thông.
Hơn ai hết, chúng ta phải ý thức được, đội mũ là để bảo vệ chính mình. Chúng tôi, bên cạnh việc siết chặt việc quản lý chất lượng mũ, yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu mũ công khai niêm yết toàn bộ đại lý bán sản phẩm của mình, đăng ký chất lượng với cơ quan nhà nước thì cũng mong nhân dân nâng cao tinh thần tự giác mua mũ đảm bảo điều kiện kỹ thuật ở những đại lý đã được uỷ quyền của các doanh nghiệp sản xuất có uy tín.
Van Hung Cuong [hungcuongvan_691@gmail.com]: Là người nhiều năm làm khoa học và nay ở cương vị quản lý cao nhất của ngành thì điều gì còn làm ông băn khoăn, trăn trở nhất? Ông có điều gì muốn chia sẻ với các nhà khoa học Việt Nam?
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Nếu nói về những điều tôi tâm đắc, trăn trở, thì có 3 việc mà tôi vẫn nói rằng tôi còn nợ các nhà khoa học 2 trong 3 việc này.
Thứ nhất là nguồn đầu tư cho KHCN hiện còn quá khiêm tốn. Mặc dù nhà nước dành 2% tổng chi ngân sách quốc gia hàng năm, nhưng tính ra giá trị tuyệt đối, chúng ta mới có khoảng gần 700 triệu USD, tình bình quân thì mỗi người chưa được 10 USD/người dành cho KHCN. Nếu kể cả nguồn đầu tư của xã hội từ doanh nghiệp, chúng ta chưa có quá 1 tỷ USD, và tính bình quân thì chúng ta mới có hơn 10 USD/người cho KHCN. Đây là mức quá thấp so với các nước trên thế giới, kể cả các nước lân cận trong khu vực. Nếu chúng ta biết rằng, Hàn Quốc có mức đầu tư trên đầu người tới 1000 USD, hay Trung Quốc mức đầu tư bình quân đầu người đã vượt quá 30 USD. Vì vậy chúng ta phải làm sao tăng được nguồn đầu tư cho KHCN, chủ yếu từ xã hội, từ doanh nghiệp.
Hiện nay, chúng ta đã kêu gọi doanh nghiệp dành 10% lợi nhuận trước thuế cho phát triển KHCN, nhưng rất ít doanh nghiệp làm được việc này. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân, doanh nghiệp của chúng ta quá nhỏ và siêu nhỏ. 10% lợi nhuận trước thuế của họ cũng chỉ đáng giá một vài chục triệu đồng, may lắm là vài trăm triệu đồng, không đủ để họ đổi mới CN của chính họ, không đủ để đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới.
Vì thế, chúng tôi đang kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội là sắp tới có thể huy động nguồn đóng góp này vào quỹ phát triển KHCN của địa phương, tỉnh và khi chúng ta huy động được nguồn đóng góp của hàng nghìn doanh nghiệp tại địa phương, tỉnh có đủ nguồn đầu tư cho một số doanh nghiệp hàng đầu hay trọng yếu của địa phương đó để đổi mới CN, tạo sản phẩm mới.
Chúng tôi cũng mong muốn hợp tác quốc tế, trong những năm qua thực tế hợp tác quốc tế theo nghị định thư tức là những đề tài, dự án hợp tác quốc tế của chúng tôi chứng tỏ là có thể thu hút đầu tư nước ngoài cho hoạt động KHCN của Việt Nam. Cứ một đồng chúng ta bỏ ra để hợp tác theo nghị định thư, chúng ta có thể lấy được 1,5-2 đồng từ nước ngoài. Như vậy, nếu chúng ta đầu tư 100 triệu USD cho các dự án hợp tác theo nghị định thư, chúng ta có thể lấy được vài trăm triệu USD từ nước ngoài tăng thêm, bổ sung cho nguồn đầu tư của chúng ta.
Thứ 2, cơ chế tài chính cho KHCN, chúng ta đã có rất nhiều năm áp dụng một cơ chế tài chính, hành chính chứ không phải cơ chế tài chính sự nghiệp cho hoạt động KHCN. Chúng ta phải lập kế hoạch KHCN trước 1,5 năm để tới khi có tiền thì nhiều đề tài, dự án đã lạc hậu, không còn cần nghiên cứu nữa.
Nhiều dự án không tiếp tục thực hiện được vì tốc độ trượt giá đã vượt quá dự toán được duyệt. Nhiều đề tài, dự án cần bổ sung kinh phí thì thời gian chờ đợi quá dài, không thể điều chỉnh được.
Thêm nữa, thủ tục thanh quyết toán như độc giả đã đề cập và tôi đã nói còn rườm rà, phức tạp, không tạo điều kiện cho các nhà khoa học. Nhiều nội dung chi chưa được bổ sung, nhiều mức chi rất thấp, nếu như thanh quyết toán qua Kho bạc Nhà nước thì cơ chế không thông thoáng như thanh quyết toán qua các quỹ. Nhiều Kho bạc vẫn bắt đầy đủ chứng từ, hoá đơn đối với những nội dung đã được khoán. Đây là nội dung rất vô lý.
Thứ 3 là chính sách đãi ngộ đối với cán bộ khoa học. Hiện nay trong hệ thống cán bộ công chức, viên chức, chỉ còn cán bộ khoa học tức là các nghiên cứu viên và kỹ sư là không có chế độ phụ cấp gì ngoài lương. Đây là điều rất bất hợp lý vì chúng ta biết rằng, cán bộ, công chức, viên chức ở các lĩnh vực khác đều có phụ cấp, thậm chí là 3-4 loại khác nhau như phụ cấp nghề, thâm niên, giữ liêm… Tổng phụ cấp ấy trong một số lĩnh vực có thể còn lớn hơn cả lương cơ bản. Trong khi đó cán bộ khoa học chỉ có thể sống bằng nghề, sáng tạo, chất xám, họ lại không có phụ cấp nào ngoài lương.
Do vậy, nếu không có chính sách đãi ngộ thoả đáng, hợp lý và ở mức cao đối với cán bộ KH, chắc chắn chúng ta khó có những chuyên gia hàng đầu, khó có tổng công trình sư, kỹ sư trưởng để có thể chủ trì những công trình lớn của quốc gia như cầu dây văng Bãi Cháy, những con tàu 100.000 tấn, dàn khoan tự nâng 90 m nước, 120 m nước, như nhà máy điện hạt nhân.
Như vậy, chúng tôi mong mỏi xã hội đồng thuận để các bộ ngành cùng với Chính phủ có thể ban hành được những cơ chế chính sách tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà khoa học được đãi ngộ thoả đáng, tạo điều kiện tốt nhất, đóng góp trí tuệ cho xã hội, đất nước một cách xứng đáng với mong mỏi của Đảng, Nhà nước và của nhân dân.
Nhân dịp đối thoại trực tuyến tại Cổng TTĐT Chính phủ với nhân dân, qua Cổng TTĐT Chính phủ và các phương tiện thông tin đại chúng, tôi rất cảm ơn sự quan tâm của đông đảo nhân dân, sự quan tâm của doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đối với hoạt động KHCN.
Chúng tôi cũng kêu gọi các nhà KH, các viện, trường, các doanh nghiệp cũng như các nhà quản lý trong lĩnh vực KHCN đồng tâm hiệp lực xây dựng những cơ chế chính sách đóng góp cho đất nước thông qua những đề tài, dự án khoa học có sản phẩm trình độ cao, áp dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả kinh tế cao để thực hiện bằng được những mục tiêu chiến lược mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đó là chúng ta phải có một nền KHCN tiên tiến, xứng đáng với mong mỏi của Đảng, Nhà nước, xứng tầm với các quốc gia trong khu vực ASEAN và một số lĩnh vực có thể đạt trình độ quốc tế.
Theo Chinhphu.vn